I. ĐẶT VẤN ĐỀ 2
II. THỰC TRẠNG – NGUYÊN NHÂN 2
III. GIẢI PHÁP 2
1- Hướng dẫn HS sử dụng và khai thác vốn từ trong dung từ đặt câu 2
2- Hướng dẫn HS vận dụng các qui tắc ngữ pháp trong dung từ đặt câu (Mẫu câu, dấu câu) 2
3- Hướng dẫn học sinh cách viết đoạn văn 2
IV. KẾT QUẢ 2
V. KẾT LUẬN 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO 2
14 trang |
Chia sẻ: trangnhung19 | Lượt xem: 806 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp hữu ích rèn kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 2 tại trường tiểu học Chu văn an huyện Đam Rông - Tỉnh Lâm Đồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a lỗi xong thì em đó tự sửa lỗi vào vở của mình và về nhà viết lại đoạn văn hoàn chỉnh, tiết Tập làm văn sau tôi sẽ kiểm tra lại.
Do phân phối chương trình không có tiết trả bài nên để làm tốt việc sửa bài tôi thường tiến hành vào các buổi phụ đạo, tiết ôn tập Tiếng Việt.
Khi luyện câu cho học sinh tôi thường xuyên sử dụng tranh, mẫu vật theo từng chủ đề, để tạo sự hứng thú sinh động cho bài học, các em dễ tiếp thu bài hơn.
Ví dụ
Khi dạy bài Luyện từ và câu bài : ”Mở rộng vốn từ: Sông biển” (bài 25 trang 66 Tiếng việt lớp 2 - Tập 2) tôi thường cho học sinh quan sát tranh về cảnh biển hoặc sông và hỏi :
GIÁO VIÊN
HỌC SINH
+ Trên bức tranh được vẽ những hình ảnh nào?
+ Mọi người đang làm gì?
+ Biển như thế nào?
- Bức tranh vẽ người biển
- Đang dạo trên bãi cát
- Đang khiêng phao đi tắm.
-Sóng lăn tăn trắng xoá xô vào bờ cát
Từ đó giúp các em đặt câu đúng ngữ pháp. Khi các em đã có khả năng tốt trong việc sử dụng vốn từ ngữ, ngữ pháp, câu văn, đoạn văn thì việc đầu tiên tôi cần giúp học sinh nắm được bố cục của đoạn văn, biết cách diễn đạt trôi chảy sau đó luyện cho các em dùng từ đặt câu văn hay. Để làm được điều đó tôi cho học sinh quan sát tranh và gợi ý để học sinh tìm cách diễn đạt sao cho câu văn hay nhất.
Ví dụ
Dạy bài Tập làm văn ở tuần 25 “ Bài Quan sát tranh và trả lời câu hỏi”
GIÁO VIÊN
HỌC SINH
+ Bức tranh vẽ gì?
+ Sóng biển như thế nào?
+ Trên mặt biển có những gì?
- Bức tranh vẽ cảnh thuyền và biển.
- Sóng biển lăn tăn ầm ầm xô vào bãi cát.
- Xô đẩy nhau chạy vào bờ.
- Có thuyền ở trên biển
- Thuyền nhấp nhô.
- Thuyền lên xuống như cách diều.
- Thuyền lướt ra khơi.
Giáo viên : Theo em thì câu nào diễn đạt hay vì sao?
Từ đó học sinh chọn câu mà các em cho là hay để trả lời. Giáo viên phân tích, cứ như vậy các em sẽ ý thức được cách viết câu văn hay chọn từ phù hợp với hoàn cảnh.
Để giúp học sinh vận dụng các từ ngữ có giá trị biểu cảm thì khi dạy bài văn, bài thơ các tiết tập đọc. Tôi khai thác kĩ các từ quan trọng trong bài.
Ví dụ
Khi dạy bài “Cô giáo lớp em” Tôi chú ý khai thác, phân tích các từ có giá trị biểu cảm được coi là “Điểm chính” của bài.
Ví dụ
Từ “ghé” với bài giảng rất hay của cô giáo, thì cây cỏ, thiên nhiên, nắng gió như muốn hoà mình vào niềm say mê, hứng thu học tập của học sinh.
Từ “ấm” trong câu thơ “Ấm trang vở thơm tho” ý muốn nói lời giảng của cô rất ấm áp dịu dàng
Hướng dẫn học sinh cách viết đoạn văn
Trong một bài văn dù bất cứ ở thể loại nào thì cũng phải tuân theo các quy tắc về ngữ pháp, đặt câu rồi mới ráp nối câu tạo thành đoạn văn hoàn chỉnh. Ở lớp 2 mục tiêu cần đạt được đối với học sinh là phải viết được một đoạn văn theo yêu cầu của thể loại. Vậy khi dạy môn Tập làm văn giáo viên không những chỉ dừng lại ở việc gợi cho học sinh tìm ý mà phải cung cấp cho các học sinh phương pháp viết đoạn văn.
Có 2 phương pháp viết đoạn văn đó là phương pháp qui nạp và diễn dịch.
* Viết đoạn văn theo cách diễn dịch là cách viết câu đầu tiên của đoạn văn mang tính khái quát,các câu sau diễn giải, làm rõ ý của câu đầu. Câu đầu thường được gọi là câu chốt của đoạn văn.
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh chú trọng khi viết câu văn đầu vì nó mang tính định hướng cho đoạn văn.
Ví dụ
Khi cho học sinh viết đoạn văn về mùa hè “ Bài tả ngắn về bốn mùa”
Câu đầu là câu mang tính chất khái quát về mùa hè. Các câu còn lại được giáo viên hướng dẫn học sinh làm rõ ý cho câu đầu.
“Mùa hè bắt đầu từ tháng tư mặt trời chói chang, thời tiết rất nóng nhưng nhờ cái nắng mùa hè làm cho trái ngọt, hoa thơm. Được nghỉ hè, chúng em tha hồ đọc truyện, vui chơi lại còn được bố mẹ cho về quê thăm ông bà. Mùa hè thật là thích.
* Viết đoạn văn theo cách qui nạp : Là cách viết đi từ các ý cụ thể, chi tiết rồi sau đó khái quát lại ở câu cuối.
Giáo viên hướng dẫn học sinh viết theo cách này đầu tiên phải đi tìm các chi tiết, hình ảnh đặc sắc để làm nổi bật chủ đề “Đối tượng”.
Ví dụ
Khi dạy bài Tâp làm văn “Tả ngắn về biển” Giáo viên hướng dẫn học sinh chọn cảnh đặc trưng tiêu biểu về cảnh biển như: mặt trời, sóng, cánh buồm, chim hải âu, bầu trời, mây Sau đó khái quát lại cảnh biển đẹp như thế nào?
Đoạn văn có thể viết như sau :
“Mặt trời đỏ rực đang dần mọc lên từ lòng biển những ngọn sóng nhấp nhô từ mặt biển xanh biếc. Những cánh buồm nhiều màu sắc lướt nhẹ trên mặt biển. Những đám mây màu tím nhạt đang bồng bềnh trôi. Cảnh biển buổi thật đẹp, thật tuyệt vời. ”
* Ngoài hai cách hướng dẫn học sinh viết đoạn văn theo kiểu qui nạp và diễn dịch còn có thể hướng dẫn học sinh viết đoạn văn theo cách sau :
* Viết đoạn văn theo tình tự thời gian
- Mọi sự vật đều liên quan theo không gian và thời gian. Một đối tượng không thể lột tả hết các nét đặc sắc của sự vật đang biến đổi liên tục. Do vậy miêu tả cảnh vật theo trình tự thời gian là cách nhà văn dùng. Cách này giúp cho học sinh có thể lột tả được các nét đặc sắc ở từng thời điểm khác nhau một cách dễ dàng.
Ví dụ
Khi dạy bài “Tả về bốn mùa”
GIÁO VIÊN
HỌC SINH
+ Sáng sớm khi mới thức dậy em thấy những gì?
+ Cảnh buổi sáng có gì đẹp?
+ Cây cối như thế nào?
+ Mọi người thường làm gì vào lúc đó?
- Em thấy sương trắng, tiếng gà gáy, ông mặt trời lên.
- Sương bồng bềnh và tan dần.
- Nắng chói chang.
- Em có cảm giác nóng,chảy mô hôi.
- Cây cối khô héo.
- Mọi người thường tìm chỗ mát, ngồi trước quạt điện, đi tăm.
Hướng dẫn học sinh viết đoạn văn theo điểm nhìn (không gian). Thời gian và không gian thường gắn liền mật thiết với nhau. Bất cứ sự vật nào cũng tồn tại trong một không gian và thời gian nhất định. Do vậy giáo viên cần hướng dẫn học sinh chọn, tìm những chi tiết đặc sắc theo không gian từ xa đến gần, từ trên xuống dưới hoặc ngược lại để miêu tả một đối tượng nào đó.
Ví dụ
Khi dạy bài “ Tả ngắn về cây cối” Ta có thể tiến hành như sau :
GIÁO VIÊN
HỌC SINH
+Bầu trời như thế nào?
+ Cây cối trong vườn như thế nào?
+ Cành lá ra sao?
+ Ngoài đồng có những cây gì? Và nó như thế nào?
- Bầu trời thêm xanh.
- Cây cối trong vươn tươi tốt
- Cành lá xum xuê, lá rụng nhiều.
- Ngoài đồng lúa đang trổ bông.
Từ đó giáo viên hướng dẫn học sinh viết thành đoạn văn và các em sẽ viết được đoạn văn hay.
* Để giúp học sinh học tốt môn Tập làm văn, bên cạnh công việc thiết yếu là cung cấp cho học sinh về kiến thức và kỉ năng viết đoạn văn hay thì một công việc không kém phần quan trọng đó là giúp học sinh phát hiện và sửa lỗi trong các bài văn, đoạn văn của mình.
Trong quá trình dạy học, khi sửa bài xong tôi thường đọc cho các em bài văn hay mà tôi tham khảo được. Học sinh nghe những câu văn hay từ đó các em sẽ lựa chọn những câu hay vận dụng vào bài văn của mình.
Ví dụ
Khi dạy tiết Tập làm văn, khi học sinh làm bài tôi thường đọc cho học sinh nghe những bài văn mẫu và những bài văn của học sinh đạt kết quả cao nhất, nhằm giúp các em vận dụng những câu văn hay vào bài của mình và rút kinh nghiệm. Từ đó các em sẽ định hướng cho việc làm và biết sử dụng từ ngữ, viết câu đoạn trong bài văn.
- Tôi thường xuyên cho học sinh trao đổi bài và so sánh các bài văn mà các em viết từ đó các em sẽ đặt lại câu của mình nhờ bạn khác, trên cơ sở câu sai giáo viên phân tích, so sánh chỉ rõ để học sinh nhận thức được mình sai như thế nào và thông qua đó, học sinh biết cách sửa lỗi câu và sẽ viết được câu đúng.
Ví dụ
Bố mẹ em đều làm công nhân còn em đi học ở trường Chu Vaên An, em em đi học mẫu giáo.
Khi đem so sánh bài của bạn các em sẽ nhận ra lỗi sai và sửa thành câu đúng câu hay.
Ví dụ
Gia đình em có 4 người, bố em làm công nhân, còn mẹ làm rẫy, anh của em đang học lớp 8, em học lớp 2A trường tiểu học Lương Thế Vinh. Sau một ngày làm việc cả nhà em lại quây quần b,ên nhau thật đầm ấm.
- Qua việc chấm chữa bài thường xuyên và đọc cho các em nghe những bài văn mẫu, cho các em so sánh bài với nhau tôi thấy bài làm của các em có tiến bộ rất nhiều, nhiều em đã viết được đoạn văn đúng và hay. Các em không còn viết sai các câu từ nữa.
KẾT QUẢ
Qua một thời gian áp dụng các biện pháp trên học sinh lớp tôi đã có nhiều tiến bộ đã có nhiều em viết được đoạn văn hay, cụ thể như sau :
TSHS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
31
7
22,6
13
41,9
10
32,2
1
3,3
Trong đó, tỉ lệ lỗi học sinh mắc phải như sau :
Bố cục
Dùng từ
Đặt câu
Chính tả
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
3
9,4
5
15,6
2
6,2
8
25,0
Trong thời gian còn lại tôi sẽ tiếp tục áp dụng các giải pháp trên một cách có hiệu quả nhất là với một em còn yếu sẽ đạt kết quả cao hơn.
KẾT LUẬN
Với một số giải pháp đã được đề ra, giáo viên cần phải tuỳ vào tình hình chung của lớp, từng đối tượng học sinh mà áp dụng, vì trong mỗi lớp học có cả học sinh giỏi – khá – trung bình - yếu. Mỗi đối tượng học sinh giáo viên có thể tăng hoặc giảm các hình thức. Muốn đạt kết quả tốt trong công tác giảng dạy, người giáo viên cần phải có tâm huyết với nghề, hết lòng vì học trò, giảng dạy với tất cả khả năng và nhiệt tình của mình.
Với kinh nghiệm giảng dạy có được tôi đã mạnh dạn thể hiện trong giải pháp này, tuy nhiên vì thời gian áp dụng trên học sinh chưa dài phạm vi chưa rộng, nên không tránh khỏi những thiếu sót mang tính khách quan và chủ quan.
Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp, của các cấp quản lí giáo dục để giải pháp này thêm hoàn thiện và trở nên thực sự “Hữu ích”.
Và cũng qua đây tôi xin tỏ lòng biết ơn tới ban giám hiệu, các đồng chí đồng nghiệp trường tiểu học Chu Vaên An đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn thành giải pháp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Phi Lieâng, ngày 25 tháng 12 năm 2006
Người viết
Lê Thị Khương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách Tiếng việt lớp 2 tập I, tập II - Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên) - Nhà xuất bản giáo dục 2006
Sách Giáo viên môn Tiếng việt lớp 2 tập I, tập II - Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên) - Nhà xuất bản giáo dục 2006 – 2003
Tạp chí thế giới trong ta
Một số tài liệu khác.
File đính kèm:
- Khuong_Ren ky nang viet doan van.doc