Ngay từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta thì phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo vệ nền độc lập dân tộc đã bắt đầu. Từ năm 1858 đến trước năm 1930 đã nổ ra hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh với mục tiêu giành lại nền độc lập dân tộc. Đó là cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu; khởi nghĩa của Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực. Đó là các cuộc khởi nghĩa theo tiếng gọi "Cần Vương" của Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Công Tráng. Những cuộc đấu tranh vô cùng oanh liệt đó của nhân dân ta chống thực dân Pháp đều bị đàn áp tàn bạo và thất bại.
Chính sách ngu dân chia để trị, bóc lột sức lao động của nhân dân và đàn áp dã man các cuộc đấu tranh, khởi nghĩa của thực dân Pháp đầu thế kỷ XX đã làm cho xã hội Việt Nam có những biến đổi lớn; hai giai cấp mới ra đời là giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai.
Đồng thời, thực dân Pháp từng bước tiến hành khai thác triệt để tài nguyên, khoáng sản của Việt Nam. Các cuộc khai thác tài nguyên, khoáng sản và tạo dựng những điều kiện phục vụ sự khai thác đó cũng như sự đô hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam đã dẫn đến sự ra đời và ngày càng trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam. Lớp công nhân đầu tiên ra đời vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp, đồn điền. Sự ra đời của giai cấp công nhân đã làm xã hội Việt Nam xuất hiện thêm mâu thuẫn mới giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản, chủ yếu là tư sản Pháp; đồng thời cũng làm tăng mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp.
Ngay từ khi mới ra đời, giai cấp công nhân Việt Nam đã mang trong mình chủ nghĩa yêu nước truyền thống và đứng lên đấu tranh chống lại sự bóc lột dã man của thực dân Pháp. Phong trào đấu tranh của công nhân, chủ yếu dưới hình thức đình công, bãi công đã nổ ra ở nhiều nơi, lúc đầu chủ yếu mang tính tự phát và cuối cùng đều thất bại.
14 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1899 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề : Đảng Cộng sản Việt Nam - Người tổ chức và lãnh đạo nhân dân giành những thắng lợi vĩ đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã nghiêm khắc kiểm điểm, khẳng định những mặt làm được, phân tích rõ những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong các nhiệm kỳ Đại hội VII (1991-1996), Đại hội VIII (1996-2001), Đại hội IX (2001-2006), Đại hội X (2006-2011), Đảng đã không ngừng tổng kết thực tiễn để phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới và lãnh đạo nhân dân ta phát huy tinh thần sáng tạo, thực hiện đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1-2011) đã khẳng định: "thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam...; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới"3.
Về mặt thực tiễn, đường lối đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ phát triển tương đối ổn định, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; kinh tế tăng trưởng khá nhanh, thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được giữ vững; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao; sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều.
Về mặt lý luận, hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng cũng có mặt, lĩnh vực còn yếu kém, có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm. Điều quan trọng là Đảng sớm phát hiện ra những yếu kém, sai lầm, khuyết điểm của mình, đề ra những biện pháp sữa chữa đúng đắn, kịp thời. Đảng công khai tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng ta được nhân dân tin cậy, thừa nhận là người lãnh đạo chân chính, duy nhất, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
III- ĐƯỜNG LỐI ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG - NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Đường lối đúng đắn của Đảng trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc
Mục đích của cách mạng giải phóng dân tộc là đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân giành được thắng lợi này chính nhờ đường lối đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của lịch sử.
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, khi giai cấp tư sản vừa bóc lột giai cấp công nhân ở chính quốc, vừa bóc lột nhân dân thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi triệt để phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"4. Đảng của giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa nắm lấy và giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn phong trào giải phóng dân tộc trong nước với phong trào cách mạng thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất có thể thực hiện được nhiệm vụ đó vì Đảng tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân đi theo mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy"5.
Vì vậy, có thể nói đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam đáp ứng yêu cầu của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam, của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trước hết là thắng lợi của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Đường lối đúng đắn của Đảng trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng, phát triển đất nước
V.I.Lênin khẳng định: Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn. Sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất có thể tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng. Có được khả năng đó là do Đảng gồm những người tiên tiến nhất của giai cấp và dân tộc, trung thành, kiên định với lợi ích của dân tộc, luôn đi đầu, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập dân tộc nên được nhân dân tin tưởng và đi theo.
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam có khả năng to lớn để lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới vì con đường cách mạng do Đảng lãnh đạo phù hợp với thời đại và quy luật phát triển của xã hội. Đảng không có mục đích tự thân. Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới, Đảng không có lợi ích nào khác.
Lịch sử cách mạng Việt Nam cận đại, hiện đại đã chứng tỏ không có một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tế trong quá trình đấu tranh giành và giữ chính quyền, có những lực lượng chính trị tham gia cùng với Đảng, nhưng khi cách mạng gặp khó khăn, họ đều chùn bước. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam trung thành với lợi ích của giai cấp vô sản, của dân tộc, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì lợi ích đó. Biết bao đảng viên và quần chúng của Đảng đã suốt đời phấn đấu, hy sinh vì lý tưởng cao cả, vì độc lập, tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
IV. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM LỚN CỦA ĐẢNG TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 1-2011) trên cơ sở tổng kết thực tiễn hơn 80 năm cách mạng nước ta đã nêu ra năm bài học kinh nghiệm lớn của cách mạng Việt Nam.
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai mặt, hai mục tiêu, hai nhiệm vụ chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, có mối liên hệ hữu cơ với nhau: Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn kiên định hai mục tiêu chiến lược này và xử lý đúng đắn mối quan hệ này. Nhờ đó, cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhân dân là người sáng tạo lịch sử. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng hơn 80 năm qua, toàn bộ hoạt động của Đảng đều xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Thực tiễn cho thấy, sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân.
Quan liêu, tham nhũng là biểu hiện của sự xa dân, làm mất niềm tin của nhân dân, Đảng ta khẳng định: "Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng"6.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kêu dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết giai cấp là một tư tưởng lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin với những khẩu hiệu như: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”.
Đoàn kết là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công”7.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc luôn được Đảng ghi trong chủ đề Đại hội.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại. Đây chính là truyền thống quý báu của Đảng ta.
Từ khi thành lập đến nay, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn với tinh thần độc lập, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời, phát huy tối đa sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, sức mạnh của thời đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác vì Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Đường lối của Đảng chỉ đúng đắn khi Đảng nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra; mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.
Sai lầm về đường lối có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường. Vì vậy, Đảng phải luôn luôn phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
File đính kèm:
- TAI LIEU TAP HUAN CONG DOAN CHUYEN DE 2.docx