Một số biện pháp rèn kỹ năng nói khi dạy tiếng việt cho học sinh lớp 2

Cũng như bộ SGK Tiếng Việt tiểu học cải cách giáo dục cũ, bộ SGK Tiếng Việt tiểu học mới tổ chức rèn luyện kỹ năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh thông qua các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết, Kể chuyện và Tập làm văn .

Phân môn Tập đọc rèn cho học sinh các kỹ năng đọc (đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc hiểu, đọc diễn cảm) , nghe và nói. Bên cạnh đó, thông qua hệ thống bài đọc theo chủ điểm và những câu hỏi , những bài tập khai thác nội dung bài đọc, phân môn Tập đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học (như đề tài, cốt truyện, nhân vật,. ) và góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh.

 

doc19 trang | Chia sẻ: lantls | Lượt xem: 3242 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số biện pháp rèn kỹ năng nói khi dạy tiếng việt cho học sinh lớp 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có dòng chữ Giải nhất viết chữ đẹp. - 5 quả bóng có dán băng giấy trên băng giấy có ghi ĐỘi vô địch. - 5 chiếc mũ làm bằng dải bì, quây tròn, trên có điểm 10 và chưc KC (kể chuyện) - Chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm ít nhất 6 học sinh, sao cho cứ 2 em đóng vai để thực hiện 1 tình huống được minh hoạ trong tranh. - GV làm trọng tài, 2 học sinh giúp trọng tài làm việc. Cách tiến hành: Nêu cách chơi và tính điểm (tương tự hướng dẫn ở trò chơi 43). VD: 2 học sinh đại diện cho nhóm 4 tham gia chơi. Một học sinh đóng vai bạn gái đoạt giải nhất trong kỳ thi Viết chữ đẹp của trường. Một ọc sinh đóng vai bạn gái lên chúc mừng bạn được giải và nói: “Chức mừng bạn! Chúng tớ vui lắm!” rồi xiết chặt tay bạn. Bạn được giải đáp: “Cảm ơn các bạn!”. Thực hành chơi: - 3 nhóm học sinh chơi đóng vai lần lượt từ tình huống đầu đến tình huống cuối theo cách đã hướng dẫn. Khi 2 học sinh trong nhóm chơi xong ở tình huống đầu thì nhóm lại cử hai học sinh khác chơi ở tình huống tiếp theo. Tiếp tục cử người chơi như vậy ở 3 tình huống. - 2 học sinh giúp việc trọng tài ghi lại câu nói của hai bạn tham gia trò chơi ở từng tình huống, môic học sinh giúp việc trọng tài chỉ chuyên ghi lại lời nói của một vai (vai chức mừng hoặc vai đáp lời chúc mừng). - Sau mỗi tình huống, trọng tài ghi điểm cho từng nhóm lên bảng lớp. Khi các nhóm đã chơi đóng vai ở tất cả các tình huống thì trọng tài cộng điểm và công bố nhóm có diểm cao nhất để khen thưởng. Loại bài tập kể chuyện: (Kể chuyện đã nghe, đã đọc, kể chuyện về bản thân và những người xung quanh...) Loại bài tập này được áp dụngở phân môn kể chuyện. Cần chú ý hướng dấn học sinh có tư thế, có giọng kể thích hợp, biết sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ hỗ trợ, đặc biệt nắm vững câu chuyện định kể. Ví dụ: Phân vai dựng chuyện Chuẩn bị: GV lựa chọn bài tạp ở tiết kể chuyện co yêu cầu phân vai dựng lại câu chuyện (Trong SGK Tiếng Việt lớp 2); có thể dựa vào văn bản truyện kể ở SGK, saon thành “Màn kịch ngắn” để học sinh tập diễn xuất được dễ dàng và thuận lợi. VD: Câu chuyện Những quả đào (Tiếng Việt 2, Tập 2, tr 91) có thể được dựng lại thành “kịch bản’ cho “Màn kịch ngắn” như dưới đây để hướng dẫn học sinh tham gia dựng lại câu chuyện (lời dẫn trong ngoặc đơn nhằm gợi ý về thái độ, của chỉ, hành động của nhân vật hoặc gợi ý tạo dựng bài trí khung cảnh...) Những quả đào Nhân vật: - Ông - Bà - Cậu bé Xuân - Cô bé Vân - Cậu bé Việt Cảnh 1: (Bà và các cháu Xuân, Vân, Việt đang ngồi trò chuyện trên ghế băng. Ông vừa đi xa về, từ ngoài cửa đi vào, trên tay cầm 4 quả đào: một quả to, 3 quả nhỏ) Ông(đưa quả đào to cho bà, 3 quả nhỏ chia cho 3 cháu): - Quả to này xin phần bà. Ba qua nhỏ chia cho 3 cháu. Cảnh 2: (Khung cảnh trong nhà vào buổi chiều. Một mâm cơm bày sẵn trên chiếc bàn có khăn trải, cả nhà ngồi trên 5 chiếc ghế quây quanh bàn) Ông (hỏi các cháu): - Thế nào, các cháu thấy đào có ngon không ? Xuân: - Đào có vị rất ngon và mùi thật là thơm, ông ạ. Cháu đã đem trồng vào một cái vò. Chẳng bao lâu nữa, nó sẽ mọc thành một cây đào to đấy, ông nhỉ? Ông(mỉm cười,gật đầu, vẻ hài lòng): - Ừ, mai sau cháu sẽ làm vườn giỏi đấy! Vân(nói với ông, vẻ tiếc rẻ): - Đào ngon quá, cháu ăn hết mà vẫn thèm. Còn hạt thì cháu vứt đi rồi ông ạ . Ông (xoa đầu Vân nhẹ nhàng, cười độ lượng ): - Ôi, cháu của ông còn thơ dại quá! ( Lúc này, Việt chỉ chăm chú vào chiếc khăn trải bàn, không nói gì) Ông( nhìn VIệt vẻ ngạc nhiên, hỏi): - Còn Việt, sao cháu chẳng thấy gì thế? Việt( hơi bẽn lẽn nhưng giọng nói tỏ ra rất vui ): - Cháu ấy a? Cháu mang đào cho bạn Sơn. Bạn ấy bị ốm. Nhưng bạn ấy lại chẳng muốn nhận quả đào cháu tặng. Cháu lén đặt quả đào trên giường bạn ấy rồi trốn về, ông ạ. Ông( thốt lên phấn khởi, xoa đầu Việt một cách âu yếm): - Ôi chao, cháu yêu quý của ông, cháu là người có tấm lòg thật là nhân hậu. Ông rất hài lòng về việc làm của cháu đấy! - Một số đồ vật phục vụ cho việc bài trí khung cảnh và diễn xuất: 1 chiếc ghế dài( cảnh 1); 1 chiếc bàn tròn( hoặc chữ nhật ) và 5 chiếc ghế đơn( ghế đẩu hoặc ghế tựa); 1 mâm cơm có vài chiếc bát, đĩa có thức ăn tượng trưng; 4 quả đào thật hoặc quả giả bằng nhựa ( một quả to, 3 quả nhỏ). - Quần áo cho học sinh đóng vai người ông, vai người bà( có thể hoá trang về râu,tóc cho phù hợp); trang phục thích hợp với tính cách từng nhân vật : Vân( ngây thơ hồn nhiên), Việt( hiền từ nhân hậu),Xuân ( cẩn thận, chu đáo). Cách tiến hành: GV cho học sinh nhận vai, học thuộc lời thoại, nắm vững yêu cầu thể hiện tình cảm, thái độ ( qua ánh mặt , cử chỉ, động tác, giọng nói...) của nhân vật trong câu chuyện . GV hướng dẫn các nhân vật tập đối thoại sao cho thuộc lời, phối hợp với nhau một cách nhịp nhàng, tự nhiên ( chưa cần diễn xuất cụ thể). GV hướng dẫn cách diễn xuất cho từng nhân vật theo” kịch bản” đã chuản bị ( tương tự như "đạo diễn” dựng kịch nói hay hoạt cảnh); trình diễn thử với đạo cụ và bài trí khung cảnh nêu trong “kịch bản”. Học sinh trình diễn” màn kịch ngắn” trước lớp; GV cho cả lớp nhận xét, bình chọn những học sinh diễn xuất giỏi để biểu dương, khen thưởng. Chương III. Kết quả Qua một số phương pháp luyện nói cho học sinh đã nêu ở trên, tôi đã thu được những kết quả chủ yếu trong dạy học như sau: Đa số học sinh trong lớp có khả năng giao tiếp với mọi người xung quanh rất tốt như: các em nhận thức được cần phải lễ phép với người trên, phải xưng hô đúng cách, phải biết nói lời cảm ơn hay xin lỗi đúng chỗ, đúng nơi, đúng lúc.Khi giao tiếp với thầy cô giáo trong trường theo đúng nghi thức, hầu hết học sinh đều biết sử dụng lời nói biểu cảm để bày tỏ sự lễ phép của minh. Trong tất cả các giờ học trên lớp, học sinh đã biết trả lời các câu hỏi của giáo viên với nội dung đầy đủ ý nghĩa, biết cách trả lời câu hỏi một cách rõ ràng, trả lời cả câu... Việc giao tiếp với bạn bè trong lớp cởi mở, tự tin hơn rất nhiều. Kết quả học tập và đạo đức của lớp tôi như sau: Học kì I: Về học lực : Học sinh xuất sắc: 17 học sinh chiếm: 44% Học sinh giỏi: học sinh chiếm Học sinh tiên tiến: 20 học sinh chiếm: 48% Về đạo đức: 100% học sinh được nhận xét: thực hiện đầy đủ Học kì II: Về học lực : Học sinh xuất sắc: 22 học sinh chiếm : 51% Học sinh giỏi: học sinh chiếm: Học sinh tiên tiến: 25 học sinh chiếm: 59% Về đạo đức: 100% học sinh được nhận xét: thực hiện đầy đủ Cả năm: Về học lực : Học sinh xuất sắc: học sinh chiếm: Học sinh giỏi: học sinh chiếm: Học sinh tiên tiến: học sinh chiếm: Về đạo đức: 100% học sinh được nhận xét : thực hioện đầy đủ Căn cứ vào kết quả học tập của học sinh, tôi có kết quả xếp loại khả năng nói và giao tiếp của học sinh lớp tôi như sau: Bảng thống kê khả năng nói_ giao tiếp của học sinh lớp 2a năm học 2008-2009 Khả năng Số học sinh Tỷ lệ % Nói tốt 15 HS Tạm được 10 HS Chưa được 3 HS Với kết quả 2 mặt giáo dục như đã nêu trên, tôi tin tưởng các em học sinh lớp 2a do tôi chủ nhiệm ở năm học 2008-2009 này, các em đủ điều kiện lên lớp 3 để tiếp tục học tập và tiếp cận với chương trình SGK mới của những năm học tiếp theo. C- Kết luận và khuyến nghị Trong “ mục tiêu giáo dục bậc tiểu học” có đưa phần mục tiêu rèn luyện nhân cách lên hàng đầu, cụ thể : “ Rèn luyện cái Tâm, bao gồm: - Xây dựng ở học sinh lòng hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, yêu quý anh chị em. - Kính trọng thầy cô giáo, lễ phép với người lớn tuổi. - Giúp đỡ bạn bè và các em nhỏ...” Như vậy mục tiêu giáo dục tiểu học còn là xoá nạn mù chữ, dạy học sinh nghe, nói, đọc, viết, biết tính toán, có kiến thức cơ bản về tự nhiên và xã hội, mà còn chú trọng rèn nhân cách con người là chính. Nhưng lòng hiếu thảo, sự kính trọng ông, bà, cha, mẹ,thầy cô và người lớn tuổi phải được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau , từ lời nói, thái độ, cử chỉ và việc làm. Điều này khẳng định vai trò to lớn của những lời nói biểu cảm của học sinh trong quá trinh giao tiếp với mọi người xung quanh. Vì vậy việc rèn kỹ năng “ nói” cho học sinh trong giờ tiếng Việt là một vấn đề vô cùng quan trọng và cần thiết. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy ở tiểu học đã nhiều năm qua, tôi nhận thấy viẹc đổi mới chương trình SGK là một việc làm vô cùng hơp lý và đáng hoan nghênh.Chương trình SGK tiếng Việt lớp 2 mới đã thực sự quan tâm, đưa ra những chủ đề, những bài tập thực hành thực sự phù hợp cho việc rèn kỹ năng “ nói” cho học sinh lớp 2. Môn tiếng Việt ở tiểu học có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học. Nhu cầu học tập của học sinh ngày càng cao, giáo viên phải không ngừng học hỏi, nghiên cứu tài liệu giáo dục nhằm thoả mãn nhu cầu ham học hỏi của học sinh. Trong quá trình dạy học, người giáo viên cần phối hợp linh hoạt các phương pháp và có các hình thức dạy học tạo không khí hào hứng, vui tươi, phấn khởi để học sinh tiếp thu bài học với hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, sự quan tâm của cha mẹ học sinh đối với việc học tập của con em mình sẽ chính là động lực mạnh mẽ nhất giúp học sinh thực sự trở thành những con ngoan, trò giỏi, là những công dân văn minh lịch sự, có ích cho gia đình, nhà trường và xã hội. Trước thực tế giảng dạy trong năm học vừa qua, với tư cách là một giáo viên dạy tiểu học, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số đề xuất sau: 1. Từ khi trẻ bâpj bẹ biết nói, những người lớn tuổi trong gia đình cần phải luôn lưu tâm uốn nắn lời ăn tiếng nói cho con em mình. Các cụ đã dạy “Uốn cây từ thuở còn non”. Không những thế người lớn còn là tấm gương cho con trẻ noi theo. 2. Khi trẻ bắt đầu đến trường, thì cùng với gia đình, nhà trường và xã hội cần giáo dục trẻ ngay từ những thói quen trong giao tiếp mạnh dạn tự tin, văn minh lịch sự, thể hiện tác phong tư cách đạo đức của con người có văn hoá. Do đó sự phối kết hợp ăn ý nhịp nhàng giữa nhà trường và gia đình là vô cùng quan trọng và cần thiết. 3. Bên cạnh đó, mỗi giáo viên cần dành nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu giảng dạy, tăng cường hiệu quả của các giờ sinh hoạt chuyên môn để đưa ra những bài giảng sinh động, hấp dẫn. Ngôn ngữ của giáo viên phải chuẩn mực chính xác trong sáng. Trên đây là một số khuyến nghị của tôi. Mong các đồng nghiệp đóng góp.

File đính kèm:

  • docRen ki nang noi khi day Tieng Viet cho hoc sinh lop 2.doc
Giáo án liên quan