Giáo án Giáo dục quốc phòng Lớp 11 - Tiết 1, Bài 1: Đội ngũ đơn vị - Năm học 2009-2010

I. MỤC TIÊU:

- Hiểu được ý nghĩa của điều lệnh đội ngũ góp phần xây dựng ý thức tổ chức kỷ luật trong học tập và rèn luyện của mỗi học sinh và lớp học.

- Nắm vững thứ tự các bước tập hợp đội hình cơ bản của tiểu đội, trung đội và động tác đội ngũ từng người không có súng.

II. PHƯƠNG PHÁP

- Nghiên cứu nắm chắc nội dung, cách thức tổ chức, phương pháp duy trì luyện tập đội ngũ đơn vị.

- Chia lớp học thành các tổ (bộ phận) cho phù hợp với từng nội dung luyện tập.

- SGK Giáo dục Quốc phòng- An ninh 11

- Trang phục thống nhất: đi giày, đội mũ cứng

III. NỘI DUNG

1. Ổn định

2. Kiểm tra bài cũ

3. Nội dung

 

doc68 trang | Chia sẻ: thiennga98 | Lượt xem: 201 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo án Giáo dục quốc phòng Lớp 11 - Tiết 1, Bài 1: Đội ngũ đơn vị - Năm học 2009-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m thời xương gãy: Tổn thương xương gãy: Tất cả các vết thương gãy xương kể cả trong chiến tranh hay do các tai nạn bất thường đều có thể xảy ra dưới dạng gãy xương kín hoặc hở. Tổn thương thường khắc phục như sau: Xương bị gãy rạn, gãy chưa rời hẳn (gãy cành xanh), gãy rời thành hai hay nhiều mảnh hoặc có thể mất từng đoạn xương. Da, cơ bị dập nat nhiều, đôi khi kèm theo mạch máu, thần kinh cung quanh cũng bị tổn thương. Rất dễ gây choáng do đau đớn, mất nhiều máu và nhiễm trùng do môi trường xung quanh. Mục đích: Làm giảm đau đớn, cầm máu tại vết thương. Giữ cho đầu xương gãy tưong đối yên tĩnh, đản bảo an toàn trong quá trình vận động chuyển người bị thương về các tuyến cứu chữa. Phòng ngừa các tai biến: chóng mất máu, do đau đớn, tổn thương thứ phát do các đầu xương gãy di động, nhiễm khuẩn vết thương. Nguyên tắc cố định tạm thời xương gãy: Nẹp cố định phải cố định được cả các khớp trên và khớp dưới ổ gãy. Với các xương lớn như xương đùi, cột sống,.phải cố định từ 3 khớp trở lên. Không đặt nẹp cứng sát vào chi, phải đệm, lót bằng bông mỡ. Gạc hoặc vải mềm tại những chỗ tiếp xúc để không gây thêm các tổn thương khác. Khi cố định không cần cởi quần, áo của người bị thương vì quần, áo có tác dụng tăng cường đệm lót cho nẹp. Không co kéo, nắn chỉnh ổ gãy tránh tai biến nguy hiểm cho người bị thương. Nừu điều kiện cho phép, chỉ có thể nhẹ nhàng kéo, chỉnh lại trục chi bớt biến dạng sau khi đã được giảm đau thật tốt. Băng cố định nẹp vào chi phải tương đối chắc, không để nẹp xộc xệch, nhưng cũng không quá chặt dễ gây cản trở sự lưu thông máu của chi. Kỹ thuật cố định tạm thời xương gãy: Thao tác cố định tam thời xương gãy tuy không phức tạp nhưng đòi hỏi mọi người phải thuần thục kĩ thuật, đồng thời phải chuẩn bị đầy đủ dụng cụ khi cấp cứu mới có thể đem lại hiệu quả tốt cho người bị thương. Các loại nẹp thường dùng cố định tạm thời xương gãy: Nẹp tre, nẹp gỗ: là loại nẹp được dùng rất phổ biến, dễ làm song phải đúng quy cách sau: + Chiều rộng của nẹp: 5 – 6cm. + Chiều dày của nẹp: 0,5 – 0,8cm + Chiều dày của nẹp: tuỳ thuộc từng chi gãy. + Nẹp cẳng tay: 2 nẹp (một nẹp ngoài dài 30cm, một nẹp dài 35cm) + Nẹp cánh tay: 2 nẹp ( một nẹp ngoài dài 20cm, một nẹp dài 35cm). + Nẹp cẳng chân: 2 nẹp (mỗi nẹp dài 60cm). + Nẹp đùi: 3 nẹp (nẹp ngoài dài 20cm, nẹp sau dài 100cm, nẹp trong dài 80cm). Kích thước này chỉ là tương đối, khi sử dụng cần cắt nẹp cho phù hợp kích thước từng người. Nẹp Crame là loại nẹp làm bằng dây thép có hình bậc thang, có thể uỗn nẹp theo tư thế cần cố định, hoặc nối hai nẹp với nhau khi cần một nệp dài. Nẹp Crame cố dịnh tốt, thuận tiện song thực tế ít sủ dụng để cố định tạm thời xương gãy ngay tại nơi bị nạn. Trong tình huống khẩn cấp, nếu không có các loại nẹp đã chuẩn bị sẵn có thể vận dụng một số phương tiện như: cành cây, gậy gỗ, đòn ghánh,làm nẹp, hoặc có thể buộc chi trên vào thân người, chi dưới vào nhau đẻ tạm thời cố định tuỳ điều kiện cụ thể tại nơi bị nạn. Kỹ thuật cố định tạm thời một số trường hợp xương gãy: Đối với các vết thương gãy xương hở, trước hết phải cầm máu cho vết thương (nếu cần thiết), băng kín vết thương, sau đó mới đặt nẹp cố định xương gãy. Cố định tạm thời xương bàn tay gãy, khớp cổ tay. Dùng một nẹp tre to bản hoặc nệp Crame. + Đặt một cuộn băng hoặc một cuộn bông vào lòng bàn tay, để bàn tay ở tư thế nửa sấp, các ngón tay nửa sấp. + Đặt nẹp thẳng từ bàn tay đến khuỷu tay. + Băng cố định bàn tay, cẳng tay vào nẹp, để hở các đầu ngón tay để tiện theo dõi sự lưu thông máu. + Dùng khăn tam giác hoặc cuộn băng treo cẳng tay ở tư thế gấp 900. Cố định tạm thời xương cẳng tay gãy: dùng 2 nẹp tre hoặc nẹp Crame: + Đặt nẹp ngắn ở mặt trước cẳng tay (phía lòng bàn tay) từ bàn tay đến nếp khửu. + Đặt nẹp ở mặt sau cẳng tay (phía mu bàn tay) từ khớp ngón tay đến mỏm khuỷ. + Buộc một đoạn ở cổ tay và bàn tay, một đoạn ở trên và nếp khuỷu để cố định cẳng tay, bàn tay vào nẹp. + Dùng khăn tam giác hoặc cuộn băng treo cẳng tay ở tư thế gấp 900 Cố định tạm thời xương cánh tay gãy. Dùng hai nẹp tre hoặc nẹp Crame: + Đặt nẹp ngắn ở mặt trong cánh tay từ nếp khửu đến hố nách. + Đặt nẹp dài ở mặt ngoài cánh tay từ mỏm khửu đến mỏm vai. + Buộc một đoạn ở một phần ba trên cánh tay và khớp vai, một đoạn ở trên và dưới nếp khửu để cố định cánh tay vào nẹp. + Dùng băng tam giác hoặc cuộn băng treo cẳng tay ở tư thế gấp 900 và cuốn vài vòng băng buộc cánh tay vào thân người. Cố định tạm thời xương cẳng chân gãy. Dùng hai nẹp tre hoặc nẹp Crame: + Đặt hai nẹp ở mặt trong và mặt ngoài cẳng chân, từ gót lên tới giữa đùi. + Đặt bông đệm vào các đàu xương. + Buộc một đoạn ở cổ và bàn chân, một đoạn ở trên và ở dưới gối, một đoạn ở giữa đùi cố định chi gãy vào nẹp. Cố định tam thời xương đùi gãy. Dùng 3 nẹp tre hoặc 3 nẹp Crame: + Đặt nẹp sau từ ngang thắt lưng (trên mào xương chậu) đến gót chân. + Đặt nẹp ngoài từ hố nách đén gót chân. + Đặt nẹp trong từ nếp bẹn đến gót chân. + Dùng bông đệm lót vào các đầu xương. + Buộc một đoạn ở cổ chân hoặc bàn chân, một đoạn ở trên và dưới gối, một đoạn ở bẹn, một đoạn ở ngang thắt lưng, một đoạn ở hố nách để cố định chi gãy vào nẹp. + Sau đó buộc chi gãy đã cố định vào chi lành ở cổ chân, gối và đùi, trước khi vận chuyển. + Trường hợp cố định bằng nẹp Crame cũng làm tương tự như cố định bằng nẹp tre. + Đối với các trường hợp gãy xương đùi, mặc dù đã được cố định đều phải vận chuyển bằng cánh cứng. III. Hô hấp nhân tạo: Là biện pháp làm cho không khí ở ngoài vào phổi và không khí trong phổi ra ngoài để thay thế cho quá trình hô hấp tự nhiên khi người bị nạn ngạt thở. Nguyên nhận gây ngạt thở: Là biểu hiện của sự thiếu ôxi, có thể thiếu ôxi phổi, có thể thiếu ôxi trong máu và tế bào, nhất là tế bào thần kinh, làm cho các tế bào bị tê liệt rồi chết. Ngạt thở thường xảy ra trong một số trường hợp sau: Do chết đuối (ngạt nước). Người không biết bơi khi ngã xuống nước, bị nước nhấn chìm chỉ sau 2-3 phút se ngạt thở. Do vùi lấp khi bị sập hầm, đổ nhà cửa, đất cát vùi lấpngực bị đè ép, mũi miệng bị đất cát nhét kín nhanh chóng gây ngạt thở. Do hít phải chất khí độc: + Kẻ địch có thể sử dụng một số chất độc có thể gây ngạt. + Những người ở lâu trong các khu vực chật hẹp, hầm kín thường xuyên thiếu không khí. + Những người làm việc trong khu vực tiếp xúc với chất độc, thiếu phương tiện bảo hộ, hoặc vi phạm các quy tắc an toàn, có thể hít phải một số chất độc. Do bị tắc nghẽn đường hô hấp trên – người bị bóp cổ, người thắt cổ, người bị nạn có nhiều đờm dãi, máu, các chất nôn. ùn tắc đường hô hấp trên gây ngạt thở. Người ngạt thở thường nằm yên, bất tỉnh, không cử động, ngừng hoạt động hô hấp, sắc mặt trắng nhợt hoặc tím tái, chân tay lạnh giá, tim ngừng đập, mạch không sờ thấy, đặt sợi bông vào mũi thấy không chuyển đông. Cấp cứu ban đầu: Cấp cứu ban đầu cho người bị ngạt thở được tiến hành sớm trong vòng 5 phút đần là rất cần thiết, chỉ cần những thao tác đơn giản, dễ làm và đúng kĩ thuật có thể cứu sóng nạn nhân. Yêu cầu: “Cấp cứu nhanh, khẩn trương, kiên trì và thành thạo kỹ thuật”. Những biện pháp cần làm ngay: Loại bỏ nguyên nhân gây ngạt: Bới đất cát cho người bị vùi, vớt người chết đuối, đưa người nhiễm độc ra nơi an toàn (phải có phương tiện bảo vệ cho người cấp cứu), để người bị nạn tại nơi thoáng mát, tránh tập trug đông người, nhanh chóng gọi người hỗ trợ và gọi cấp cứu lưu động. Khai thông đường hô hấp trên bằng cách: + Lau chùi đất cát, đờm dãi,ở mũi miệng, cần thiết phải hút trực tiếp bằng miệng. + Nới hoặc tháo bỏ quần áo, các dây nịt, thắt lưng, dây thắt cổ để người bị nạn có thể tự thở được. Làm hô hấp nhân tạo: + Kiểm tra kỹ người bị nạn để phát hiện sớm dấu hiệu ngừng thở, tim ngừng đập: Mất ý thức: vỗ nhẹ vào người, nạn nhân không có phản ứng. Ngừng thở: áp sát má vào mũi, miệng nạn nhân, nhìn xuôi xuống ngực, bụng không thấy phập phồng và không thấy có hơi ấm. Tim ngừng đập: bắt mạch bẹn hoặc mạch cảnh ở cổ không thấy mạch đập. Lúc này mỗi giây phú đều quý giá, vì vậy các thao tác kiểm tra phải hết sức nhanh, không được kéo dài quá 1 phút. + Nừu xác định người bị nạn đã ngừng thở, tim ngừng đập phải tiến hành hô hấp nhân tạo ngay. Những việc làm đồng thời với hô hấp nhân tạo: + Bằng mọi cách kích thích lên người bị nạn: chà sát mạnh khắp người, giật tóc mai, hoặc có điều kiện đốt quả bồ kết thổi khói vào hai lỗ mũi, nếu người bị nạn nấc sẽ có khả năng thở lại được. + Xoa dầu cao chống lạnh hoặc sưởi ấm. + Điều kiện cho phép có thể tiêm thuốc trợ tim. Các phương pháp hô hấp nhân tạo: Phương pháp thổi ngạt và ép tim ngoài nồng ngực: Là phương pháp dễ làm, đem lại hiệu quả cao. Cần 1 người làm có thể 2 người làm. + Thổi ngạt: Để người bị nạn nằm ngửa, kê một chiếc gối hoặc chăn, màn ,dưới gáy cho đầu hơi ngửa ra sau. Người cấp cứu quỳ bên phải sát ngang vai người bị nạn, dùng một ngón tay cuốn miếng gạc, hoặc vải sạch đưa vào trong miệng người bị nạn lau sạch đờm dãi, các chất nôn, Dùng một ngón tay bóp kín hai bên mũi, một tay đẩy mạnh cằm cho miệng há ra, hít một hơi thật dài, áp miệng mình vào sát miệng người bị nạn, thổi. Làm liên tiếp với nhịp độ 15- 20 lần/phút. + ép tim ngoài nồng ngực Người cấp cứu quỳ bên phải người bị nạn. Đặt bàn tay phải chồng lên bàn tay trái, các ngón ta ỹen kẽ nhau, đè lên 1/3 dưới xương ức, các ngón tay chếch sang bên trái. ép mạnh bằng sức nặng cơ thể xuống xương ức người bị nạn với 1 lực vừa đủ để nồng ngực lún xuống 2- 3cm. Với tre ngỏ lực ép nhẹ hơn. + Sau mỗi lần ép thả lỏng tay cho ngực trở lại vị trí bình thường. Duy trì với nhịp độ 50 -60 lần/phút. + Trong trường hợp chỉ có một người nên duy trì 2 lần thổi ngạt, 15 lần ép tim. Trường hợp cò hai người làm, người thổi ngạt quỳ bên trái, người ép tim quỳ bên phải người bị nạn và duy trì 1 lần thổi ngạt, 5 lần ép tim. Làm liên tục cho đến khi nào người bị nạn tự thở được, tim đập lại thì dừng. Phương pháp Sylvester (Xin- Vectơ): + Người bị nạn nằm ngửa đầu quay về một bên có chăn hoặc gối đệm dưới lưng + Người cấp cứu quỳ ở phái đầu ↓   ↓ Top of Form

File đính kèm:

  • docGA QPAN 11.doc
Giáo án liên quan