Đề tài Rèn nề nếp và kĩ thuật viết chữ đúng cho học sinh lớp một để làm cơ sở cho việc viết chữ đẹp

Những điểm mới về nội dung và phương pháp dạy học tập viết ở các lớp 1 , 2 ,3 theo chương trình tiếng Việt tiểu học ( từ trang 42 đến 48 thài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên tiểu học chu kỳ III 2003 – 2007 nhà xuất bản Giáo Dục ) .

doc18 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1488 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Rèn nề nếp và kĩ thuật viết chữ đúng cho học sinh lớp một để làm cơ sở cho việc viết chữ đẹp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bó ( dễ gây tê mỏi ) . hai tay phải đặt đúng điểm tựa quy định mới điều khiển cây bút theo sự chỉ huy của não được . Ngồi quá cao , đầu phải cúi gằm xuống . Ngồi quá thấp , đầu phải nhìn lên ( điều này phụ thuộc vào bàn ghế phải thích hợp kích cỡ học sinh ). Tuyệt đối không quỳ, nằm , ngồi viết tùy tiện . khoảng cách từ mắt đến tầm 25cm đến 30cm là vừa ( hơn một gang tay người lớn ); không được nhìn quá gần vở vì thiếu ánh sáng sẽ dẫn đến cận thị . Cột sống lưng luôn ở tư thế thẳng đứng, vuông góc với mặt ghé ngồi. Không ngồi vặn vẹo, lâu dần thành có tật, dẫn đến lẹch cột sống, rất khó chữa sau nay. hai chân thoải mái, không để chân co, chân duỗi khiến cột sống phải lệch vẹo và chữ viết sẽ xiên lệch theo. Tay trái để xuôi theo chiều ngồi, giữ lấy mép vở cho khỏi xô lệch , đồng thời làm điểm tựa cho trọng lượng nửa người bên trái. b/ Hướng dẫn cách cầm bút đúng: Tay phải cầm chắc bút bằng 3 ngón tay ( cái , trỏ , giữa ). Đầu ngón trỏ cách đầu ngòi bút chừng 2,5cm. Mép bàn tay là điểm tựa của cánh tay phải khi đặt bút xuống bàn viết . Lúc viết, điều khiển cây bút bằng các cơ cổ tay và các ngón tay. Không để ngửa bàn tay quá, tạo nên trọng lượng tì xuống lưng của hai ngón tay út va áp út ( ngón deo nhẫn ). Ngược lại không úp quá nghiêng bàn tay về bên trái (nhìn từ trên xuống thấy cả 4 ngón tay: trỏ, giữa, áp út và út ). Các tư thế tay cầm bút không đúng sẽ dẫn đén các cố tật sau này khó chữa như: căng cứng,mỏi cơ gân bàn tay; viết chóng mỏi tay;ra nhiều mồ hôi tay;không thẻ viết lâu, viết nhanh được. ở giai đoạn viết chì , cần chuẩn bị chu đáo cho đầu nét chì hơi nhọn đúng tầm. nếu quá nhọn dẫn đến nét chữ quá mảnh, đôi khi còn chọc thủng giấy.Ngược lại, đầu nét chì quá “ tù” ,nét chữ quá to,chx iết ra rất xấu. Cầm bút xuôi theo chiều ngồi.Góc đọ bút đặt so với mặt giấy khoảng 45 độ. Tuyệt đối không cầm bút dựng đứng 90 độ. Đưa bút từ trái qua phải từ trên xuống dưới các nét đưa lên hoặc đưa sang ngang phải thật nhẹ tay, không ấn mạnh đầu bút vào mặt giấy. Biện pháp thứ hai : Rèn viết đúng trọng tâm từ nhóm chữ Nếu cùng một lúc đòi hỏi học sinh viết đúng và đẹp ngay là diều rất khó thực hiện, mặt khác căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mối quan hệ về cách viết các chữ cái đêr học sinh viết đúng kĩ thuật ngay từ đầu tôi chia nhóm chữ và xác định chữ trọng tâm đại diện cho mỗi nhóm chữ hcj sinh hay sai chỗ nào, học sinh gặp khó khăn gì khi viét các chữ ở nhóm đó. Nhóm 1: Gồm các chữ : m n i u ư v r t Với nhóm chữ này học sinh hay thắc mắc lỗi viết chưa đúng nét nối giữa các nét, nét móc thường bị đổ nghiêng, khi hất lên thường choãi chân ra nên không đúng . Để khắc phục nhược điểm trên ngay từ nét bút đầu tiên tôi đặt trọng tâm rèn luyện học sinh viết nét móc ngược, móc 2 đầu thật đúng, thật ngay ngắn trước khi ghép các nét tạo thành chữ. Khi ghép chữ tôi luôn chú ý minh họa rõ nét điểm đặt bút, điểm dừng bút của mỗi nét để chữ viết cân đối, đẹp. Từ các nét cơ bản ở nhóm chữ thứ nhất được viết đúng kĩ thuật học sinh sẽ có cơ sở viết chữ ở nhóm thứ 2 dễ hơn. Nhóm thứ 2: gồm các chữ : l b h k y ở nhóm chữ này học sinh hay viết sai điểm giao nhau của nét và chữ viết còn cong vẹo. - Để giúp học sinh viết đúng điểm giao nhau của các nét khuyết tôi luôn cho học sinh xác định rõ ràng điểm giao nhau của nét khuyết bằng 1 dấu chầm nhỏ và rèn cho học sinh thói quen luôn đưa bút từ điểm bắt đầu qua đúng chấm rồi mới đưa bút lên tiếp thì mới viết đúng. - Đối với học sinh lớp 1 để viết được nhóm chữ này thẳng, ngay ngắn thì cần rèn cho học sinh biết viết nét sổ thật đúng,thật thẳng ở ngay các bài nét chữ cơ bản khi nào thành thạo thì mới tiến hành viét nét khuyết . Nhóm 3 : Gồm các chữ : o ô ơ ă â Với nhóm chữ này nhiều người cứ nghĩ là đơn giản nhưng thực tế hầu hết học sinh viết sai từ chữ O như chiều ngang quá rộng hoặc quá hẹp, nét chữ không đều đầu to đầu bé. chính vì vậy ở nhóm chữ này tôi xác định cần dạy học sinh viết đúng chữ O để làm cơ sở cho viết đúng các chữ khác trong nhóm. vậy thì O viết thế nào cho đúng? Điểm đặt bút từ đâu? chiều ngang chiếm tỉ lệ bao nhiêu so với chiều cao? Đó là việc làm rất khó đểcho học sinh xác định được. Vì vậy khi dạy chữ O tôi kẻ một ô vuông trên bảng rồi chia ra 3 phần bằng nhau, đánh dấu 4 điểm ở giữa các cạnh hình chữ nhật, dùng phấn màu chấm hình chữ O sau đó tô lên các dấu chấm,vừa tô vừa giảng kĩ, nhấn mạnh điểm đặt bút đầu tiên và điểm dừng bút chính là điểm để viết thêm dấu “ , “ chữ O và điểm để nối các nét chữ khác khi viết nhanh. Viết được chữ O đúng học sinh dễ dàng viết đúng các chữ cái khác trong nhóm. Giai đoạn viết hoa : Sau 4 năm dạy chương trình cải cách tôi nhận thấy phần dạy học sinh làm quen với việc tô chữ hoa còn có sự mâu thuẫn: Trong sách hướng dẫn: Qui trình là: GV tô chữ hoa mẫu trên bảng lớp. Học sinh viết chữ hoa vào bảng con trước rồi mới tập tô chữ hoa trong vở nên rất khó khăn cho học sinh,cứ đến giờ viết chữ hoa nhiều em lo lắng vì viết quá khó. Sau khi tìm hiểu tâm lý và thử nghiệm tôi mạnh dạn chuyển đổi quy trình khác với sách hướng dẫn đó là: -GV tô màu trên bảng lớp -Học sinh tô vào vở -Phần củng cố học sinh mới luyện viết chữ hoa vào bảng con . Bằng cách suy nghĩ thay đổi quy trình ở sách hướng dẫn học sinh bớt căng thẳng và phấn khởi khi đã được tô chữ trước khi tập viết chữ hoa do vậy chất lượng viết chữ hoa của học sinh lớp tôi có nhiều tiến bộ. Sau khi chia các nhóm chữ, xác định trọng tâm cần dạy kĩ ở mỗi nhóm tôi luôn đặt ra một kế hoạch rèn chữ hàng tuần, hàng tháng 1 cách cụ thể. Mỗi tuần tôi rèn một nhóm chữ nhất định, rèn đúng loại chữ này thì mới chuyển sang loại chữ khác, loại chữ này viết đúng kỹ thuật mới chuyển sang rèn loại chữ khác rồi tiến tới rèn viết đẹp nên học sinh rất say mê,phấn khởi, không căng thẳng lo lắng khi tập viết. Sau mỗi bài viết cần nhận xét “ nét nào được, nét nào hỏng?”. Tìm nguyên nhân vì sao hỏng: Tại tư thế cầm bút, ngồi viết không đúng quy định, tay đặt bút không có điểm tựa, vì chưa chuyển dịch bút đúng tầm tay đưa bút, do vướng vấp cạnh bàn, mặt giấy không nhẵn, mực xuống không đều... Tóm lại có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến chữ xấu trong khi viết. Sau khi phát hiện ra nguyên nhân chỗ viết hỏng, cần giúp trẻ rút kinh nghiệm, tránh vấp phải sai sót tương tự ở lần sau. Khi viết thấy mỏi tay,mồ hôi tay ra nhiều , hoặc hoa mắt, nhức đầu, có nghĩa là ngồi quá lâu, phải nghỉ giải lao, chuyển sang các hoạt động cơ bắp như :vươn vai , hít thở, tập thể dục...Sau 4 đến 5 phút trở lại ngồi viết sẽ có hiệu quả hơn. Biện pháp Thứ Ba: Sự mâu mực chữ viết của giáo viên là phương tiện quan trọng để dạy học sinh viết đúng, đẹp. Người giáo viên phaỉ coi trọng việc trình bày trên bảng là trang viết mẫu mực của mình cho học sinh noi theo.Do vậy việc khổ công rèn luyện viết đúng,viết đẹp,viết rõ ràng và ngay ngắn là tiêu chí mọi GV đều phải đặt ra và thực hiện bằng được trong từng giờ học,trong từng cách trình bày bảng sao cho khoa học, đẹp mắt. Ngoài yêu cầu về viết đúng, viết đẹp tôi còn luôn chú ý tạo sự thống nhất trong cách trình bày bảng ở từng phân môn và thể hiện bài dạy. Từ đó quy định cách trình bày bài viết trong vở của học sinh để tạo ra sự thống nhất , chuẩn mực từ các chi tiết nhỏ nhất(gạch chân, kẻ hết bài,kẻ hết buổi,cách ghi phân môn,cách trình bày bài thơ lục bát , thơ tự do và bài văn xuôi...)Hay khi chấm bài tôi rất chú ý đến việc chữa lỗi kĩ cho học sinh kết hợp với lời phê chính xác, mang tính khích lệ, chỉ bảo, luôn chứa đựng tình cảm, động viên học sinh để học sinh tự tin vào bản thân khi viết bài và nhận ra những tồn tại cần khắc phục. VD: Đối với học sinh viết đúng, viết đẹp: “ Bài con viết đúng. Nét chữ mềm mại- Đáng khen” Đối với học sinh chưa đung mà có tiến bộ” “ Chữ viết con đã có tiến bộ. Cô rất vui. con hãy cố gắng hơn nữa” Nếu có những học sinh thường viết sai tôi nhận xét thật rõ ràng những nét chữ sai đó và viết mẫu cho các em 2,3 dòng để về nhà tập viết lại theo mẫu. “ Con viết sai nét ..., hãy tập viết lại theo mẫu của cô” Biện Pháp Thứ Tư: Kết hợp với cha mẹ học sinh và tổ chức tốt các phong trào thi đua. Đặc điểm của học sinh lớp 1 là nhanh quên vì vậy việc rèn luyện viết chữ đúng,đẹp cần được làm thường xuyên và liên tục ở mọi nơi mọi lúc, ngoài sự dạy dỗ của thầy cô ở lớp việc cha mẹ giúp đỡ con rèn chữ ở nhà là một việc quan trọng vì vậy ngay buổi học đầu tiên của năm học tôi đã trao đổi rất kĩ tầm quan trọng của việc rèn chữ cho học sinhlớp 1 và phổ biến cách dạy các cháu ở nhà cho thống nhất với giáo viên ở lớp.Tôi mạnh dạn trình bày trên bảng các nhóm chữ và nêu trọng tâm cần dạy ở mỗi nhóm chữ tới cha mẹ học sinh, phát tới từng phu huynh tờ hướng dẫn rèn chữ và yêu cầu chữ viết cần đạt để cha mẹ học sinh có cách dạy thống nhất với giáo viên. Một mặt nữa tôi luon chú ý bồi dưỡng lòng say mê và quyết tâm rèn chữ viết cho học sinh thông qua các phong trào thi đua theo tuần, theo chủ điểmvà kết hợp với hội cha mẹo học sinh khen thưởng kịp thời. VD: Mỗi tuần vào tiết sinh hoạt lớp tôi thường dành khoảng 10 phút để tổng kết đánh giá việc rèn chữ giữ vở của học sinh và phát thưởng. mỗi chủ điểm của tháng tôi thường tổ chức phong trào viết thư tặng mẹ, tặng cô nhân ngày8/.Học sinh nào viết đẹp sẽ được mang về tặng mẹ và được cô phát thưởng. Ngoài việc phát động thi đua trong học sinh tôicòn giới thiệu các bài viết đẹp, các trang viết đẹp của học sinh trong buổi họp cha mẹ học sinh để cha mẹ học sinh cùng thi đua rèn luyện cho con em mình. IV. Kết quả thực hiện. từ nhận thức của bản thân trên cơ sở thực tiễn chọn đề tài và các biện pháp triển khai đề tài lớp tôi đã đạt được một số kết quả thực hiện như sau: mỗi tháng học sinh lớp tôi đều có tiến bộ về chữ viết, cụ thể: T9: A=90% B=10% T10: A=92% B=8% T11: A=94% B=65 T12: A=96% B=6% T1 – 2 : A= 98% B=2% T3: A= 98% B=2% Là lớp đạt danh hiệu lớp vở sạch chữ đẹp với tỉ lệ cao Qua đợt kiểm tra thường kì của trường được khen là lớp có kĩ thuật viết tốt, đảm bảo chiều cao, độ rộng của các con chữ Học sinh thích môn tập viết có lòng saymê rèn chữ giữ vở

File đính kèm:

  • docsang kien kinh nghiem NGA.doc
Giáo án liên quan