Tài nguyên nước – Khai thác và sử dụng hợp lí

Khi nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về nước cho sản xuất và sinh hoạt ngày càng tăng. Nhưng sự phân bố nước lại không đều giữa các vùng đã dẫn tới sự mất cân đối giữa cung-cầu về nước sạch. Như vậy, loại tài nguyên này tưởng như là vô tận lại trở thành có hạn.

 a. Nước trên mặt

Với địa hình 3/4 diện tích là đồi núi, lại bị chia cắt dữ dội, điều kiện khí hậu nhiệt đới-ẩm-gió mùa, sông ngòi nước ta khá dày đặc. Mật độ sông ~ 0,5 - 1,2 km/km2. Cả nước có 2360 con sông có chiều dài 10 km, bao gồm 124 hệ thống sông với tổng diện tích lưu vực 292.470km2. Có 10 lưu vực sông chính (Bằng Giang-Kỳ Cùng; Hồng-Thái Bình; Mã; Cả; Thu Bồn; Đà Rằng; Đồng Nai; Cửu Long; Xêsan; Xrêpốc); diện tích lưu vực > 10.000km2; 10 lưu vực này chiếm 80% diện tích; 70% nguồn nước và trên 80% dân số cả nước.

 

doc4 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1977 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài nguyên nước – Khai thác và sử dụng hợp lí, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lại trở thành có hạn. a. Nước trên mặt Với địa hình 3/4 diện tích là đồi núi, lại bị chia cắt dữ dội, điều kiện khí hậu nhiệt đới-ẩm-gió mùa, sông ngòi nước ta khá dày đặc. Mật độ sông ~ 0,5 - 1,2 km/km2. Cả nước có 2360 con sông có chiều dài 10 km, bao gồm 124 hệ thống sông với tổng diện tích lưu vực 292.470km2. Có 10 lưu vực sông chính (Bằng Giang-Kỳ Cùng; Hồng-Thái Bình; Mã; Cả; Thu Bồn; Đà Rằng; Đồng Nai; Cửu Long; Xêsan; Xrêpốc); diện tích lưu vực > 10.000km2; 10 lưu vực này chiếm 80% diện tích; 70% nguồn nước và trên 80% dân số cả nước. - Sông ngòi nhiều nước, giàu phù sa: Tổng lượng dòng chảy của tất cả các sông ~ 880km3/năm (lượng dòng chảy sinh ra trong nước 325 km3, chiếm 37% tổng lượng dòng chảy năm). tổng lượng cát bùn hàng năm do sông vận chuyển ra Biển Đông ~ 200 triệu tấn (sông Hồng 120 triệu tấn, sông Cửu long 70 triệu tấn) - Những dòng chảy lớn: Sông Mê Công, diện tích lưu vực 795.000 km2, thuộc phần lãnh thổ Việt Nam 72.000 km2 (~ 9%). Tổng lưu lượng nước 520,6 tỉ m3 (Việt Nam 10%). Hệ thống sông Hồng-Thái Bình, diện tích lưu vực 169.000 km2 (thuộc phần lãnh thổ Việt Nam 51%), tổng lượng dòng chảy 137 tỉ m3 (Việt Nam 68%). Nếu ở thượng nguồn của hai hệ thống sông lớn này khai thác mạnh tài nguyên nước (đặc biệt trong mùa khô) thì nguồn nước có thể khai thác ở Việt Nam sẽ nằm ngoài tầm kiểm soát. Vì vậy, vấn đề sử dụng chung nguồn tài nguyên nước của các sông này đã trở nên cấp bách trong thế kỷ XXI này, đây cũng là vấn đề cần hợp tác với các nước có liên quan. - Về thủy chế, do tính chất bất thường của chế độ mưa mùa, trạng thái bề mặt các lưu vực và hình dáng sông ngòi nước ta mà dòng chảy có sự chênh lệch lớn trong mùa mưa và mùa khô: + Hệ thống S.Hồng: Thủy chế ít điều hòa, lũ vào tháng VI-X (chiếm 74% lưu lượng nước cả năm). Lũ do 3 sông tạo nên (sông Đà 41-61%, sông Lô 20-34%, sông Thao 15-23%), khi lũ của 3 sông gặp nhau gây lũ đột xuất. Với hình thái lưu vực dốc ở thượng nguồn và trung du ít dốc ở hạ du, nên lũ lên nhanh nhưng rút lại chậm. Chính vì vậy mà hệ thống đê điều ở ĐB sông Hồng đã được hình thành từ rất sớm (thế kỷ XI) đến nay đã khá hoàn chỉnh. Việc XD các công trình thủy điện ở đây sẽ có ý nghĩa không chỉ về năng lượng mà còn có ý nghĩa trị thủy (kiểm soát lũ) ở sông Hồng. + Hệ thống sông Mê Công: sông dài 4.500km chảy qua 5 nước Trung Quốc – Mianma - Thái Lan – Lào - Cămpuchia vào Việt Nam ở hạ lưu, sông chảy qua nhiều miền khí hậu khác nhau. Đây là sông có lượng dòng chảy lớn nhất, lũ từ tháng VI-XI, lũ lên chậm và rút chậm (do có sự điều tiết của hồ Tônglêsáp (Biển Hồ). Lượng dòng chảy cũng chênh lệch lớn giữa mùa lũ và kiệt (khoảng 7 lần). Người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long có kinh nghiệm sống chung với lũ (tại đây không có hệ thống đê điều vững chắc như ở Đồng bằng sông Hồng). Ngay từ khi con người đến khai thác vùng đất này và cả bây giờ chúng ta cũng chỉ chủ trương kiểm soát lũ từng phần bằng cách đắp đê bao, các tuyến đường vượt lũ. + Hệ thống sông Đồng Nai - Vàm Cỏ. Diện tích lưu vực 42.655 km2, thuộc phần lãnh thổ Việt Nam 36.261 km2. Hệ thống sông Đồng Nai-Vàm Cỏ bao trùm gần như toàn bộ lãnh thổ vùng Đông Nam Bộ, một phần phía Nam Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung. Lũ vào mùa Hạ, lớn nhất là tháng VII-IV; mùa kiệt từ tháng III-V. Đây là lưu vực sông của vùng kinh tế phát triển năng động nhất cả nước, vì vậy sử dụng hợp lý nguồn nước sông có ý nghĩa rất quan trọng. + Hệ thống sông ở Tây Nguyên có những sông nhánh của tả ngạn sông Mê Công (lớn hơn cả là sông Xrêpốc và Xêsan), những sông này tuy nhỏ, nhưng có ý nghĩa rất lớn về nước tưới và thủy điện. Trên sông Xêsan đã xây dựng thủy điện Yaly, sông Srêpốc đã xây dựng thủy điện Đrây Hlinh, hiện nay đang tiếp tục xây dựng một vài công trình thủy điện khác. + Hệ thống sông Mã, sông Chu. Diện tích lưu vực 28.400 km2, chảy qua một phần vùng Tây Bắc qua Lào vào Thanh Hóa. Hai sông này cung cấp phù sa cho đồng bằng Thanh Hóa (rộng nhất trong các đồng bằng Duyên hải miền Trung). Lũ vào tháng VI - XI (cao nhất tháng IX). + Hệ thống sông Cả. Diện tích lưu vực 27.200 km2. Bắt nguồn từ Lào chảy vào Nghệ An, tạo nên đồng bằng Nghệ An nối liền với đồng bằng Thanh Hóa. Do lưu vực sông mở rộng về phía Tây, vì vậy đồng bằng cũng mở rộng sâu vào trong đất liền. Lũ vào tháng VI - X (cao nhất tháng IX), kiệt vào tháng XI - V (kiệt nhất tháng III). Ở hạ lưu của hệ thống sông này có các thành phố lớn như thành phố Vinh, trung tâm kinh tế lớn nhất của Bắc Trung Bộ. + Các sông ở miền Trung (Đông Trường Sơn) từ Hà Tĩnh - Bình Thuận có đặc điểm chung là đều ngắn, dốc, lưu lượng nước nhỏ (nhiều sông chảy theo hướng Tây - Đông), lượng dòng chảy nhỏ chủ yếu trong địa phận nước ta. Mùa lũ lệch vào mùa Thu Đông, lũ lớn nhất vào tháng X, XI, lũ tiểu mãn vào tháng V, VI; tháng kiệt nhất vào IV hoặc VII, VIII. Các sông này tạo nên các đồng bằng nhỏ hẹp, lại bị chia cắt bởi các nhánh núi lan ra sát biển. Ở hạ lưu các sông thường có các thị xã, thị trấn. Những sông lớn ở đây khi chảy qua các vùng lãnh thổ nào thường mang tên các thị xã, thị trấn mà nó chảy qua (ví dụ Tam Kỳ, Vĩnh Điện, Sông Cầu....). Do sông ngắn và dốc, ở hạ lưu lại không có đê nên lũ lên rất nhanh và rút cũng nhanh. Lũ ở miền Trung rất nguy hiểm (đặc biệt là ở thượng nguồn) hiện tượng lũ quét thường đe dọa các điểm dân cư, các công trình xây dựng, đường sá..., còn ở đồng bằng thiệt hại do lũ gây ra cũng rất lớn . Với Duyên hải miền Trung việc làm các hồ, xây dựng các đập chứa nước có ý nghĩa rất lớn để điều tiết nước trong mùa lũ và giữ nước cho mùa khô. Bảng 1.6. Phân bố nước trên mặt. Các vùng lãnh thổ và lưu vực Tổng số Riêng nội địa Lưu lượng (tỉ m3/năm) % Lưu lượng (tỉ m3/năm) % Cả nước 840,0 100,0 328,0 100,0 1. Đồng bằng sông Hồng - Lưu vực sông Hồng và Thái Bình 137,0 16,3 90,6 27,6 2. Đông Bắc - Lưu vực sông vùng Quảng Ninh - Lưu vực sông vùng Cao – Lạng 17,4 8,5 8,9 2,0 1,0 1,0 15,7 7,2 7,2 4,8 2,2 2,2 3. Bắc Trung Bộ - Lưu vực sông Mã. - Lưu vực sông Cả - Lưu vực sông vùng Bình - Trị -Thiên 67,0 18,5 24,7 23,8 8,0 2,3 2,9 2,8 58,3 14,7 19,8 23,8 17,9 4,5 6,3 7,3 4. Duyên hải Nam Trung Bộ - Khu vực Đà Nẵng và Quảng Nam - Khu vực Quảng Ngãi – Bình Định. - Khu vực Phú Khánh 48,7 21,6 14,6 12,5 5,8 2,6 1,7 1,4 48,7 21,6 14,6 12,5 14,8 6,6 3,2 4,4 5. Tây Nguyên 30,0 3,6 30,0 9,1 6. Đông Nam Bộ - Lưu vực sông Đồng Nai - Khu vực Ninh - Bình Thuận 34,9 30,0 8,4 4,2 3,0 1,0 34,9 8,4 10,6 2,6 7. Đồng bằng sông Cửu Long - Lưu vực sông Cửu Long 505,0 60,1 50,0 15,2 Nguồn: Viện qui hoạch thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. b. Nước ngầm Tài nguyên nước ngầm của Việt Nam hiện nay vẫn chưa được thăm dò, đánh giá đầy đủ. Theo kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy phần lớn nước ngầm chứa trong các thành tạo ở độ sâu từ 10-100 m. Các phức hệ có khả năng khai thác đó là phức hệ trầm tích rời bở tập trung ở Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và một vài nơi ven biển miền Trung, phức hệ trầm tích cácbonat phân bố chủ yếu ở Đông Bắc, Tây Bắc, vùng Bắc và Bắc Trung Bộ, phức hệ đá phun trào (Tây Nguyên và Đông Nam Bộ). Tổng trữ lượng động thiên nhiên của cả nước 1.513 tỉ m3/s (lưu lượng dòng ngầm ở một cắt nào đó của tầng chứa nước). Trữ lượng khai thác thăm dò khoảng 3,3 tỉ m3. Nước ngầm phân bố không đều trong cả nước, tập trung nhiều nhất ở các vùng đồng bằng (nhưng thường bị nhiễm mặn, hàm lượng sắt và độ axit cao), rất hạn chế trong các vùng núi đá vôi và trong tầng ba dan. Khai thác nước ngầm chủ yếu cung cấp nước cho đô thị, sản xuất công nghiệp, nước sạch cho các vùng nông thôn, đối với các vùng chuyên canh cây công nghiệp (cà phê Tây Nguyên) lại càng quan trọng. c. Ý nghĩa kinh tế của hệ thống sông ngòi nước ta - Tạo nên các đồng bằng rộng lớn (Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long Duyên hải miền Trung); thuận lợi cho nền nông nghiệp lúa nước, định canh. Tạo điều kiện tập trung dân cư và phát triển các ngành kinh tế khác. Chính vì thế, ở ven sông thường tập trung các đô thị lớn, các trung tâm công nghiệp, dịch vụ; Các vùng ven sông và các cửa sông còn hình thành các cảng rất lớn (Cần Thơ); Nhiều cửa sông rộng (hình phễu) rất thuận lợi cho tàu bè ra vào; Các sông ngòi nếu được nạo vét thường xuyên sẽ là hệ thống giao thông vận tải lý tưởng. - Về thủy điện, sông ngòi nước ta có giá trị về thủy điện rất lớn. Tổng trữ năng (lý thuyết) 28-30 triệu kw. Sản lượng điện ~ 250 tỉ kw/h/năm (khả năng cho khai thác 60 tỉ kw/h/năm), hiện nay chúng ta mới khai thác trên 50%. Như vậy khai thác thủy điện có ý nghía rất lớn cho phát triển kinh tế - xã hội và sử dụng tổng hợp nguồn tài nguyên nước. ▪ Hạn chế của nguồn tài nguyên nước. Tính chất bất thường của thủy chế (lũ và kiệt). Lũ lụt năm nào cũng xảy ra gây thiệt hại rất lớn cả về người và của của nhân dân. Mùa kiệt, lượng dòng chảy nhỏ, nước mặn vào khá sâu trong đất liền, riêng ở hai đồng bằng lớn trong phạm vi 30-50 km từ cửa sông vào chịu ảnh hưởng của triều biển sông Hồng (20km), sông Thái Bình (40km), sông Tiền (50km), sông Hậu (40km). Dòng chảy cát, bùn (phù sa) lớn, ước tính hàng năm các sông đổ ra biển ~ 200 triệu tấn phù sa (sông Hồng 120 triệu tấn; sông Cửu Long 70 triệu tấn). Nếu ở thượng lưu, rừng bị khai thác quá mức, hiện tượng xói mòn đất diễn ra ngày càng mạnh, thì lượng bùn đổ ra biển càng lớn. Phù sa một mặt bồi đắp cho các đồng bằng, nhưng mặt khác nó còn lắng đọng trong hệ thống kênh mương, hồ chứa nước, các đập thủy điện, đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên nạo vét lòng sông rất tốn kém. ▪ Để bảo vệ nguồn nước (trên mặt và nước ngầm): Hạn chế việc làm ô nhiễm do chất thải (công nghiệp và sinh hoạt). Nâng cấp, cải tạo các hệ thống thoát nước. Hạn chế việc dùng hóa chất trong nông nghiệp, đặc biệt là những vùng rau ở Đà Lạt, Hà Nội, ở những vùng chè; ở vùng trồng lúa thâm canh thường gây ô nhiễm ở tầng nước nông, đây lại là tầng nước phần lớn dùng cho sinh hoạt của nông dân. (Theo ĐỊA LÝ KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM- Nguyễn Duy Hòa)

File đính kèm:

  • docTai nguyen nuoc.doc