Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Tiếng Anh Lớp 3 nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh - Năm học 2013-2014 - Trần Hữu Đức Nhân

Đổi mới phương pháp giảng dạy “Lấy học sinh làm trung tâm” là phương pháp giảng dạy lấy học sinh làm chủ thể trong quá trình tìm hiểu khai thác kiến thức. Trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy thì đồ dùng trực quan có một vai trò vô cùng quan trọng giúp học sinh có khả năng tư duy cao độ, tập trung quan sát tìm hiểu và nghiên cứu thông qua kênh hình, xây dựng lên kiến thức bài học.

 Người thầy đóng vai trò làm người hướng dẫn, thiết kế những hoạt động học tập giúp học sinh tự thu thập được thông tin và xử lý thông tin, tự phát hiện ra chủ điểm và nội dung kiến thức chính của bài học mới. Tổ chức cho học sinh khai thác triệt để kiến thức, xây dựng kiến thức tình huống thông qua kênh hình. Đồ dùng trực quan sẵn có để thu thập thông tin mới qua quan sát hình vẽ, vật thật, mô hình sẵn có quanh ta để rút ra kết luận hoặc khắc ghi cấu trúc, ngữ nghĩa sâu và lâu hơn.

doc7 trang | Chia sẻ: thiennga98 | Lượt xem: 792 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Tiếng Anh Lớp 3 nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh - Năm học 2013-2014 - Trần Hữu Đức Nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hế, giá sách + Đồ dùng hình tượng là những hình vẽ, băng, đĩa. + Vật thay thế là các mô hình bằng nhựa hoặc đất sét. Khi sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên phải nghiên cứu nội dung bài học trước để chuẩn bị đồ dùng cho phù hợp với nội dung tiết dạy và đồ dùng đó phải được sử dụng một cách triệt để, tiết dạy đó sẽ hiệu quả hơn. Có như vậy đồ dùng trực quan mới có giá trị để học sinh khai thác và tìm hiểu kiến thức tốt hơn trên cơ sở quan sát trao đổi nhóm để khắc sâu kiến thức. Dùng đồ dùng trực quan phục vụ cho việc giảng dạy bộ môn Anh Văn góp phần làm học sinh dễ hiểu và tiếp nhận kiến thức dễ hơn, tạo sự thoải mái cho học sinh làm cho các em không còn ngại học ngoại ngữ nói chung và Anh Văn nói riêng. Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy thì người dạy đóng vai trò là chỉ đạo, học sinh làm chủ trong quan sát và chủ động tìm hiểu nghiên cứu chủ điểm cũng như kiến thức của bài học mới, tạo được hứng thú và kích thích tính tò mò, hiếu động, ham tìm hiểu ở học sinh. Sau khi quan sát đồ dùng trực quan, người dạy là người hướng dẫn gợi ý để học sinh xây dựng và hướng tới nội dung chính, kiến thức trọng tâm của bài. Chính vì lẽ đó, đối với giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng dạy học là một vấn đề quan trọng không thể thiếu được, nó quyết định đến việc thành công cho tiết dạy và cả quá trình dạy học, giáo viên cần có kế hoạch nghiên cứu chương trình để chuẩn bị đồ dùng. 2.3.2. Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan: - Đây là phương pháp giáo viên tổ chức để cho học sinh quan sát đồ dùng trực quan, tìm hiểu kiến thức thông qua đồ dùng để xây dựng tình huống, đoán ngữ nghĩa của từ, dự đoán các hiện tượng, sự việc, thu thập thông tin dữ liệu để hướng học sinh vào chủ điểm bài học hoặc làm bài tập để xử lý thông tin. - Để phát huy việc sử dụng đồ dùng trực quan tốt nhất cần kết hợp và linh hoạt sử dụng một số phương pháp cơ bản sau đây: * Phương pháp làm mẫu (Model, Action, Talk - Mat) nhấn mạnh vào việc hành động và làm mẫu theo các cấu trúc và mẫu câu rồi luyện kỹ, giúp cho học sinh hình thành kỹ năng sử dụng tiếng Anh một cách tối đa trong một lượng thời gian tối thiểu. Phương pháp này tương đối phù hợp với hoàn cảnh dạy tiếng Anh ở Việt Nam vì có những ưu điểm sau: + Tiết kiệm được thời gian, học sinh hiểu ngay được nội dung, ngữ liệu qua động tác của giáo viên. + Học sinh hiểu được mình phải làm gì khi luyện tập. + Giúp giáo viên dùng toàn tiếng Anh để giảng giải một cấu trúc, một hoạt động mà không cần viện đến tiếng mẹ đẻ. * Phương pháp phản ứng thể chất toàn bộ (Total Physical Response – TPR) còn gọi là phương pháp nghe hiểu (The Comprehension Approach -CA) nhằm giúp học sinh phản ứng toàn diện bằng động tác dựa trên sự liên kết giữa ngôn ngữ và hành động tự nhiên, cách làm này giúp học sinh liên tưởng và nhớ lâu hơn. + Đặc điểm của phương pháp TPR: - Giúp học sinh phát triển khả năng hiểu ngôn ngữ trước khi nói ngôn ngữ ấy. - Khả năng hiểu ngôn ngữ thông qua động tác cơ thể. - Không ép buộc học sinh nói nếu các em chưa sẵn sàng. + Kỹ thuật chủ đạo của phương pháp TPR: - Dùng mệnh lệnh chỉ đạo hành vi của học sinh trên lớp; - Thay đổi vai giao tiếp: Cho học sinh đổi vai, làm theo mệnh lệnh và tập ra lệnh. - Sử dụng chuỗi hành động (các mệnh lệnh có liên quan tới nhau). * Phương pháp chức năng (Functional Approach - FA) nhấn mạnh khả năng sử dụng ngôn ngữ bằng những mẫu câu trong ngữ cảnh, tình huống cụ thể và phù hợp. * Phương pháp giao tiếp (Communicative Approach - CM) coi ngôn ngữ sử dụng trong lớp học phải mang tính thông báo để trao đổi ý tưởng và tình cảm giữa giáo viên - học sinh và học sinh với học sinh. * Phương pháp nghe - nói (Audio - lingual Approach - ALA) nhấn mạnh vào khả năng phát âm và cú pháp của ngôn ngữ. * Phương pháp ngữ pháp - cấu trúc (Grammatical Structural Approach) nhấn mạnh vào sự tiếp thu một hệ thống ngữ pháp. Bên cạnh việc sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên cũng cần nhấn mạnh vào kỹ năng giao tiếp, lấy học sinh làm trung tâm, khuyến khích các em giao tiếp theo nhóm, theo cặp và cả lớp, xây dựng môi trường thân thiện hợp tác. Do vậy giáo viên cần: - Tăng cường sử dụng tiếng Anh trên lớp học để tiến tới việc có thể sử dụng tiếng Anh như một ngôn ngữ chính trong việc học tiếng Anh (các lời chào, thăm hỏi, mệnh lệnh) nói với các em càng nhiều tiếng Anh càng tốt để tạo cho các em hình thành thói quen nghe và hiểu. - Quan tâm hơn nữa tới việc sử dụng tiếng Anh như một phương tiện giao tiếp thực sự hướng tới độ chuẩn xác về ngữ âm và ngữ điệu. - Khuyến khích học sinh sử dụng tiếng Anh thường xuyên hơn (chào, hỏi, xin phép ). - Khuyến khích học sinh chuyển đổi ra tiếng Anh những điều các em nói bằng tiếng Việt; - Trả lời câu hỏi của học sinh bằng Tiếng Anh. - Tạo môi trường ngôn ngữ để làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp bằng ngoại ngữ để thúc đẩy học sinh tham gia tích cực vào hoạt động giao tiếp. - Giúp học sinh khắc phục mặc cảm tự ti, xấu hổ, sợ sai dẫn đến việc ngại nói, lời nói bằng cách động viên, chỉ dẫn, sửa lỗi nhẹ nhàng chứ không ngắt lời khi học sinh đang nói, không phê phán khi các em làm sai. - Chỉ sử dụng tiếng Việt để hỗ trợ cho việc giải thích một số từ khó, khái niệm trừu tượng hoặc các hiện tượng ngữ pháp mới. - Tập trung dạy ngôn ngữ giao tiếp trên cơ sở hành động lời nói chứ không dạy ngữ pháp thuần tuý. - Chuẩn bị các hoạt động đa dạng sao cho phù hợp với các đối tượng khác nhau. - Chuẩn bị nhiều tình huống giao tiếp liên quan đến từng hành động lời nới. - Cung cấp cho học sinh ngữ liệu tối thiểu, đơn giản, dễ nhớ, dễ sử dụng. Để tránh tình trạng “dịch” từng từ một hay từng câu nói một, khi dạy ngữ liệu mới, đồ dùng dạy học, nghe - nhìn cần được sử dụng trong việc thiết lập tình huống giao tiếp hay giới thiệu ngữ nghĩa của ngữ liệu mới. Giáo viên có thể sử dụng hình ảnh, đồ vật thật, điệu bộ, giọng nói hay hành động để giúp học sinh liên hệ giữa âm thanh, giọng nói của băng đĩa hay của chính giáo viên. Bằng cách này giáo viên có thể gây hứng thú và hướng sự chú ý của các em vào học tập, đồng thời có sự lien tưởng và ghi nhớ trong ký ức những gì được nghe thấy. Riêng đối với một số ngữ liệu có tính trừu tượng, không thể dùng đồ dùng học tập dạy học, nghe, nhìn giáo viên có thể dùng Tiếng Việt đơn giản, ngắn gọn để nói nghĩa tương đương. Tuy nhiên không nên lạm dụng Tiếng Việt giảng dạy ngoại ngữ mà nên giải thích nghĩa Tiếng Anh thông qua câu, từ đơn giản. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: Sau đây là kết quả kiểm chứng của tôi khi áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy ở Khối 3 - lớp 3A2 Trường Tiểu học Thị Trấn Kinh Cùng năm học 2013-2014: - Vào cuối Học kỳ I năm học 2013 – 2014, kết quả học sinh lớp 3A2 đạt như sau: TSHS: 36 Trong đó Giỏi: 9, Khá: 11, Trung bình: 16 - Bắt đầu từ đầu Học kỳ II tôi áp dụng thực tế sáng kiến kinh nghiệm của mình vào giảng dạy đến cuối Học kỳ II. Kết quả học sinh lớp 3A2 đạt như sau: TSHS: 36 Trong đó Giỏi: 21, Khá: 15 và không còn học sinh trung bình. 3. KẾT LUẬN: 3.1. Bài học kinh nghiệm: Qua việc áp dụng sáng kiến tôi rút ra được một số kinh nghiệm sau: - Giới thiệu từ mới thông qua vật thật hoặc tranh ảnh. - Dạy cách phát âm thông qua việc nghe băng kết hợp với việc mô phỏng âm thanh bằng thao tác, hành động của người dạy. - Đồ dùng trực quan phải đa dạng, sinh động, gần gũi với các em. - Khi sử dụng đồ dùng trực quan, giáo viên nên chú ý tới chủ điểm, tới đối tượng học sinh để đề ra yêu cầu phù hợp. Hướng dẫn cho học sinh hiểu rõ nội dung yêu cầu. Song phải mang tính logic, mặt khác giáo viên phải tôn trọng sự độc lập, sáng tạo của học sinh. 3.2. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm: - Với học sinh: + Qua việc sử dụng đồ dùng trực quan sinh động, sáng tạo, phù hợp với từng bài tôi thấy lớp học sôi nổi hơn, sự gần gũi giữa thầy và trò được cải thiện rõ rệt. + Những em học yếu không còn ngại và sợ học môn Tiếng anh nữa. Các em đã bạo dạn hơn và có ý thức học tập để xây dựng lớp học phong phú, sôi nổi. - Với người dạy: + Sử dụng thời gian trong tiết dạy hợp lý hơn. + Các kết quả thu lượm được từ việc quan sát lắng nghe giáo viên sẽ nắm được các điểm yếu, điểm mạnh của học sinh. 3.3. Khả năng ứng dụng triển khai: - Áp dụng chuyên đề vào các tiết giảng dạy Tiếng anh có đủ đồ dùng trực quan và sử dụng triệt để đồ dùng trực quan sẽ khai thác kiến thức sâu hơn, thực tế hơn, học sinh sẽ tích cực và yêu thích môn học hơn. Giáo viên Tiếng anh sẽ đạt được những nguyện vọng, niềm tin mà bản thân yêu cầu đối với học sinh của mình. - Học sinh có thể rèn luyện khả năng quan sát và tư duy thông qua việc quan sát những vật thật trong lớp học, môi trường xung quanh các em. Nếu được tận dụng hiệu quả những vật thật sẳn có như trên giáo viên có thể tiết kiệm được việc đầu tư tranh ảnh không cần thiết góp phần tiết kiệm kinh phí cho nhà trường cũng như của giáo viên. Phát huy tính tích cực của học sinh, giúp các em yêu thích môn Tiếng anh hơn. Các em sẽ có cơ hội nghiên cứu, tìm tòi và vận dụng kiến thức tốt hơn trong học tập. Bản thân tôi sẽ áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này trong suốt quá trình giảng dạy của mình. 3.4. Đề xuất ý kiến: - Với bộ môn Tiếng Anh ở Tiểu học cần cung cấp thêm nhiều đồ dùng trực quan sinh động hơn nữa. - Đảm bảo đủ sách giáo khoa, sách bài tập cho các em học sinh.(vì kênh hình trong SGK rất đa dạng, phong phú ). - Cần tổ chức những buổi ngoại khóa với những vật thật như những mô hình bằng nhựa hoặc bằng đất sét nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. Trên đây là một số đề xuất để triển khai, ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm được hiệu quả hơn. Khi trình bày sáng kiến đề này, tôi muốn phát huy tính tích cực của học sinh trong việc tiếp thu kiến thức. Đồng thời tôi cũng rất mong sự góp ý của Phòng Giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường, Tổ chuyên môn để tôi đạt hiệu quả tốt hơn trong công tác nghiên cứu và giảng dạy. Xin chân thành cảm ơn! Kinh cùng, ngày 19 tháng 05 năm 2014 DUYỆT CỦA BGH Người viết sáng kiến Trần Hữu Đức Nhân

File đính kèm:

  • docSu dung do dung truc quan trong giang day Tieng anh Lop 3 nham phat huy tinh tich cuc hoc tap cua ho.doc
Giáo án liên quan