Trong cuộc sống hiện nay, vị trí công tác TDTT trong nhà trường càng được xác định theo đúng tầm quan trọng của nó. Thông qua giáo dục trong bộ môn thể dục, bồi dưỡng cho học sinh những đức tính dũng cảm, giúp học sinh biết được kĩ năng cơ bản để tập luyện giữ gìn sức khỏe, nâng cao thể lực, góp phần rèn luyện nếp sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, kỉ luật, thói quen tự giác tập luyện thể dục thể thao, giữ gìn vệ sinh. Có sự tăng tiến về thể lực, thi đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể và thể hiện khả năng của bản thân về thể dục thể thao, biết vận dụng những điều đã học vào nếp sinh hoạt ở trong và ngoài nhà trường, góp phần chuẩn bị cho thế hệ trẻ có nếp sống, tác phong công nghiệp.
9 trang |
Chia sẻ: thiennga98 | Lượt xem: 365 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm: Quản lí sĩ số học sinh trong giờ thể dục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y vòng quanh sân trường với thời gian khoảng 2-3 phút đối với nữ và 4-5 phút đối với nam, biện pháp này mang tính chất (rèn luyện sức bền). Sức bền là khả năng làm việc của cơ thể trong một thời gian đối với cường độ cao mà sự mệt mỏi xuất hiện muộn, sức bền thong hoạt động TDTT đặc trưng cho hoạt động thể lực kéo dài với sự tham gia của một khối lượng cơ bắp lớn, nhờ sự hấp thụ O2 để cung cấp năng lượng cho cơ hoạt động chủ yếu bằng con đường ưa khí.
Hay phạt bật cóc 2 x 15m đối với nữ và 3 x 15m đối với nam, biện pháp này mang tính chất (rèn luyện sức mạnh). Đặc điểm hóa học của cơ có vai trò rất lớn đến sự phát triển sức mạnh, chính những bài tập về sức mạnh làm tăng hàm lượng protit trong cơ đồng thời làm tăng quá trình phân giải không có O2, tăng sự hoạt động của các men và làm tăng số lượng đơn vị vận động, ức chế được sự hoạt động của các cơ đối kháng sẽ làm tăng sự vận động của cơchính các hình thức sử phạt này vừa làm cho các em sợ vừa rèn luyện thể lực cho các em đồng thời răn đe các em khác thường trốn tiết không dám vi phạm.
2. Giáo dục thể chất là một quá trình giáo dục, đặc trưng của nó thể hiện ở việc giảng dạy các động tác bao gồm trang bị những tri thức về TDTT, rèn luyện các kĩ năng và hình thành kĩ xảo vận động, phát triển các phẩm chất thể lực. Năng lực thể thao là một thành phần rất quan trọng trong cấu trúc nhân cách , năng lực bao gồm một tổ hợp những đặc điểm tâm lí, sinh lí cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho con người hoàn thành tốt hơn. Sự phát triển của năng lực bao giờ cũng theo một xu thế từ thấp đến cao, từ năng lực chung đến năng lực riêng và ngày càng được hoàn thiện hơn, và năng lực luôn luôn bị chi phối bởi yếu tố bẩm sinh di truyền và sự giáo dục rèn luyện của mỗi người.
Nắm tâm lí phần nhiều học sinh thiếu năng khiếu thực hiện hoàn chỉnh các yêu cầu kỹ thuật cao trong các môn thể thao như cầu lông, bóng chuyền. Trong quá trình giảng dạy tôi luôn đưa ra những yêu cầu kĩ thuật từ thấp đến cao, từ nhẹ đến nặng, từ đơn giản đến phức tạp. Sau quá trình giảng dạy, làm mẫu tôi thường chọn các em có năng khiếu và tố chất về thể thao lên thực hiện lại kĩ thuật động tác mẫu cho cả lớp xem. Sau đó phân lớp ra thành nhiều nhóm để thực hiện luyện tập. Trong mỗi nhóm luyện tập đều có những em thực hiện tốt các yêu cầu kĩ thuật để các em kèm nhau luyện tập . Giáo viên phải thường xuyên giám sát, đôn đốc và sửa sai đúng lúc cho từng nhóm, tìm biện pháp giáo dục phù hợp trên cơ sở phát huy tính tích cực, sáng tạo, biết điều chỉnh và tổ chức hoạt động, tạo điều kiện phát triển tốt tố chất và khả năng cho các em. Cách này giúp các em yếu mạnh dạn tập luyện theo bạn bè từng bước có cảm giác với bóng, với cầu rồi hình thành kĩ năng vận động, tạo hưng phấn luyện tập cho các em, nhờ vậy khắc phục được tình trạng chán nản rồi bỏ học.
3. Từ tuổi thiếu niên, các em đã bắt đầu tri giác những đặc điềm cơ thể của mình một cách hoàn toàn mới và đến tuổi thanh niên các em vẫn tiếp tục chú ý đến hình dáng bên ngoài của mình như trang phục, thể hình, nước da, kiểu tóc hình ảnh thân thể là một thành tố quan trọng của sự ý thức ở thanh niên mới lớn.
Hiểu được tâm lí các em sợ nắng ảnh hưởng đến vẻ đẹp của nước da khi tập thể dục nên thường bỏ học. Bên cạch việc điểm danh trước buổi học bằng cách lập danh sách điển danh hàng tuần để nắm bắt được số học sinh bỏ học tiết trước, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến các em bỏ học để có biện pháp sử lí kịp thời, quy định nội quy giờ giấc học tập chặt chẽ. Khi thực hiện nội dung tập luyện phải phong phú, phương pháp dạy học phải khoa học, tổ chức giờ học phải linh hoạt phát huy tính tích cực của học sinh, giảng giải và làm mẫu có trọng tâm, chính xác.
Ngoài ra trong từng buổi học tôi thường tổ chức một vài trò chơi nhỏ để hỗ trợ cho môn học. Trò chơi là phương tiện chuyên môn để thực hiện các nhiệm vụ cơ bản của Giáo dục thể chất. Song đối với học sinh trung học phổ thông trò chơi có một ý nghĩa đặc biệt, nó thúc đẩy quá trình nhận thức hiện thực của các em, bởi vì trò chơi bao giờ cũng lấy từ cuộc sống xung quanh. Từ đó hình thành những hành vi, nét tính cách, tiếp nhận những quy tắc và luật lệ của đời sống xã hội. Trò chơi bao giờ cũng gắn liền với sự phát triển trí tuệ và ý chí, sự sáng tạo độc lập và tính năng động tích cực của hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu hoạt động thể lực của bản thân.
Khi tổ chức trò chơi phải chia nhóm để các em thi đua với nhau nhằm tăng thêm tính hứng thú của trò chơi. Tạo không khí vui vẻ thoải mái quên đi thời tiết nóng bức và làm cho các em không bỏ tiết.
4. Trong quá trình giảng dạy bộ môn thể dục trong nhà trường phổ thông thể lực của học sinh luôn là vấn đề trăn trở đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn này, việc các em có thể lực yếu kém không chỉ ảnh hưởng đến việc phát triển thể chất mà còn ảnh hưởng đến việc học tập của các em, việc làm cấp thiết là cần có sự thay đổi tư duy trong việc hướng dẫn tập luyện và rèn luyện thể lực cho học sinh.
Đối với học sinh có thể lực yếu, trong quá trình giảng dạy môn chạy bền trước khi vào luyện tập tôi thường phân nhóm của lớp ra làm ba nhóm sức khỏe.
Nhóm 1: sức khỏe tốt (nhóm học sinh nam).
Nhóm 2: sức khỏe trung bình (nhóm học sinh nam và nữ).
Nhóm 3: sức khỏe yếu (nhóm học sinh nữ).
Thời gian của chạy bền trong một tiết là 5-6 phút. Bước vào luyện tập cho nhóm 1 chạy trước 1 phút, sau đó cho nhóm 2 chạy theo, nhóm 3 chạy sau nhóm 2 là 1 phút. Khi đủ thời gian quy định cho các em đi bộ và làm động tác hồi tĩnh. Tôi thường khuyến khích các em trong học tập bằng cách không đòi hỏi các em tập luyện đạt yêu cầu như những học sinh bình thường, mà chỉ yêu cầu các em tập một cách nghiêm túc, nhiệt tình theo tình trạng sức khỏe và thể lực của mình, và từng bước cải thiện được thể lực cho các em. Khi kiểm tra tôi hạ yêu cầu điểm chuẩn đối với những học sinh này. Tác dụng của việc làm này giúp các em bốt ngán sợ môn thể dục. Từ đó việc học sinh bỏ tiết cũng giảm dần.
5. Khi dạy tôi thường tìm hiểu tình hình học sinh của các lớp để biết được lớp nào có nhiều học sinh ở xa từ đó có ý kiến với ban giám hiệu sắp xếp thời gian học tập hợp lí tạo điều kiện cho học sinh đi học thuận lợi ít mệt mỏi.
Bằng phương pháp giảng dạy như trên tôi đã uốn nắn được các em có ý thức học môn thể dục giảm được tình trạng học sinh bỏ học và chất lượng môn học được nâng lên.
IV / Kết quả đạt được:
Bằng những biện pháp thực hiện như trên trong những năm qua việc quản lí học sinh trong giờ học của tôi đã có những tiến bộ đáng kể. Trong nhưng năm đầu mới về dạy trong từng tiết học, học sinh thường vắng tiết nhiều. Có những em thường xuyên vắng mặt trong tiết thể dục đến cuối năm có nhiều em không đạt yêu cầu về số điểm. Nhưng những năm gần đây học sinh có ý thức học môn này rất tốt. Hiện tượng học sinh vắng nhiều không còn nữa. Trong các giờ học học sinh thường thực hiện nghiêm túc từ đồng phục, giờ giấc đến tập luyện. Đặc biệt trong năm học 2007-2008 cho đến nay việc học sinh thực hiện giờ giấc học sinh tôi dạy rất tốt. việc nâng cao ý thức học tập môn thể dục trong học sinh đã góp phần thúc đẩy phong trào thể dục thể thao trong nhà trường càng ngày càng mạnh mẽ thể hiện qua các kết quả đạt được trong những cuộc thi do ngành và địa phương tổ chức.
Kết quả thu được qua bảng thống kê cho thấy rõ việc học sinh trốn học với các lí do qua các năm học đã được giảm dần, điều đó đã khẳng định việc áp dụng các biện pháp đã mang lại kết quả khả quan.
V / Kết luận
Qua nghiên cứu tài liệu và thực tiễn giảng dạy, bản thân nhận thức rõ được tầm quan trọng trong công tác giáo dục thể chất trong nhà trường phổ thông là tạo những điều kiện thuận lợi nhất để bồi dưỡng cho học sinh những đức tính dũng cảm, giúp học sinh biết được kĩ năng cơ bản để tập luyện giữ gìn sức khỏe, nâng cao thể lực, góp phần rèn luyện nếp sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, kỉ luật, thói quen tự giác tập luyện thể dục thể thao, giữ gìn vệ sinh, có sự tăng tiến về thể lực. Hình thành con người mới, phát triển toàn diện về “Đức - Trí - Thể - Mĩ”, góp phần cải tạo nòi giống, đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Trên đây là một số kinh nghiệm qua thực tiễn giảng dạy mà theo tôi đây là những biện pháp tích cực giúp giáo viên quản lý tốt học sinh trong giờ dạy của mình, để rút ra những biện pháp giảng dạy nhằm thu hút học sinh học tập, giảm tình trạng học sinh bỏ học, trốn học như nêu ở trên đã mang lại kết quả khả quan.
Tuy bản thân đã có những cố gắng nhưng khả năng có hạn, nên chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự đóng góp tận tình của BGH, của đồng nghiệp để bản thân được học hỏi, từng bước nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để hoàn thành nhiệm vụ của mình ngày một tốt hơn.
File đính kèm:
- SKKN TD(1).doc