Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị - đồ dùng dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh khối lớp 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị - đồ dùng dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh khối lớp 3, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 A - PHẦN MỞ ĐẦU
 Thế kỷ XXI - thế kỷ của nền văn minh trí tuệ, tri thức và kĩ năng của con 
người đã và đang quyết định năng suất lao động, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội 
của một đất nước. Muốn tiếp cận được những tiến bộ vượt bậc của kỉ nguyên 
mới thì các quốc gia phải không ngừng đổi mới. Hòa trong xu thế đó, Việt Nam 
đã và đang đổi mới một cách toàn diện và mạnh mẽ nhằm mau chóng tiến kịp 
với các quốc gia khác, hội nhập được với quốc tế, nhằm nắm bắt kịp thời những 
tiến bộ khoa học công nghệ trong sự nghiệp phát triển của đất nước. Để những 
bước đi đó ngày một vững chắc thì giáo dục đóng vai trò đặc biệt quan trọng vì: 
“ Giáo dục đào tạo là chìa khóa để mở cửa tiến vào tương lai”.
 Vai trò đặc biệt quan trọng của GD&ĐT được Đảng ta xác định tại Đại hội 
Đảng lần thứ IX “ Phát triển GD&ĐT là một trong những động lực thức đẩy, 
hoạt động là điều kiện để phát triển nguồn nhân lực, yếu tố cơ bản để phát 
triển xã hội tăng trưởng nhanh và bền vững”.
 Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, giáo dục nước ta 
cũng đã và đang tìm kiếm những giải pháp tiên tiến, để tiến tới xây dựng một 
nền giáo dục hiện đại. Một trong những đổi mới cơ bản, quan trọng của giáo dục 
Việt Nam đã làm được đó là đổi mới chương trình sách giáo khoa, mà nhiệm vụ 
và mục tiêu là đào tạo con người hiện nay và mai sau, làm chủ tri thức khoa học 
và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kĩ năng thực hành giỏi.
 Đổi mới chương trình sách giáo khoa là đổi mới cả về nội dung, hình thức 
và phương pháp giảng dạy. Chương trình sách giáo khoa mới giúp học sinh 
chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động, sáng tạo thông qua các phương tiện, thiết 
bị, đồ dùng dạy học. Vì thiết bị - đồ dùng dạy học vừa là phương tiện để chuyển 
tải thông tin, vừa là nội dung của quá trình truyền thụ kiến thức, giáo dục tư 
cách, rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh. Nó điều khiển hoạt động nhận 
thức của học sinh từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Nó có tác dụng 
to lớn trong việc phát huy trí tuệ sáng tạo, kích thích hứng thú trong việc dạy và 
học của thầy và trò. Đặc biệt thiết bị dạy học bao giờ cũng cho những kết quả 
đúng, nó đảm bảo tính khoa học, tính sáng tạo và tính thẩm mĩ cao.
 Song thực tế việc sử dụng thiết bị - đồ dùng dạy học theo chương trình 
sách giáo khoa mới, hiện nay một số giáo viên đang gặp không ít khó khăn, một 
phần do thiết bị - đồ dùng dạy học được trang bị còn thiếu, chưa đồng bộ, tần số 
sử dụng chưa cao, một phần do giáo viên chưa thật hết bỡ ngỡ trong quá trình sử 
dụng thiết bị - đồ dùng dạy học một cách có hiệu quả, từ đó dẫn đến tâm lý ngại 
sử dụng. đặc biệt là đối với học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói 
riêng. Các em bắt đầu được tiếp cận với những khái niệm mới ở tất cả các bộ 
môn như: Toán, Tiếng Việt, Âm nhạc, Tự nhiện & xã hội, Mĩ thuật,...Vì vậy sử 
dụng thiết bị - đồ dùng dạy học tốt sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh, 
góp phần nâng cao chất lượng học tập.
 1 Là một cán bộ quản lý trong nhà trường, để giúp giáo viên, đặc biệt là giáo 
viên khối 3 nâng cao việc sử dụng thiết bị - đồ dùng dạy học. Do đó tôi đã chọn 
đề tài: Nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị - đồ dùng dạy học nhằm tích cực hóa 
hoạt động học tập của học sinh khối lớp 3” để nghiên cứu, viết sáng kiến kinh 
nghiệm.
 B - PHẦN NỘI DUNG
I/ CƠ SỞ LÍ LUẬN:
 Thiết bị - đồ dùng dạy học là một phương tiện góp phần nâng cao hiệu quả 
giờ lên lớp, ở các cấp học nói chung và bậc Tiểu học nói riêng.
 Mục tiêu dạy học ở bậc Tiểu học đã được khẳng định rõ: “ Tiểu học đặt cơ 
sở ban đầu cho việc hình thành, phát triển toàn bộ nhân cách của con 
người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông và toàn bộ hệ thống 
giáo dục quốc dân”.
 Để đạt được mục tiêu này, các trường Tiểu học cần phải được đổi mới về 
nội dung, phương pháp dạy học, trong những vấn đề đổi mới về giáo dục đào tạo 
hiện nay thì đổi mới về phương pháp dạy học có vị trí đặc biệt quan trọng. Vì 
hoạt động dạy và hoạt động học là hai hoạt động chủ yếu của nhà trường. Cuộc 
cách mạng về phương pháp giáo dục, phương pháp lựa chọn nội dung, phương 
pháp dạy học, phương pháp sử dụng thiết bị - đồ dùng dạy học (thiết bị được cấp 
và đồ dùng tự làm có hiệu quả) sẽ đem lại những chuyển biến tích cực trong giáo 
dục, đối với bậc Tiểu học là bậc học nền tảng nên vai trò của việc đổi mới 
phương pháp lại càng có vị trí đặc biệt quan trọng.
 Quá trình dạy học ở Tiểu học thường bắt đầu từ việc cung cấp những hình 
ảnh cụ thể của sự vật, hiện tượng, trên cơ sở đó dần dần hình thành các khái 
niệm, quy tắc, ban đầu thì thấy khó nhưng biết sử dụng thiết bị - đồ dùng dạy 
học một cách hợp lí, khoa học thì trở nên dễ hiểu, học sinh khắc sâu, nhớ lâu 
kiến thức.
 Nhìn chung phương pháp trực quan là phương pháp phù hợp với tư duy với 
học sinh Tiểu học được sử dụng nhiều ở bậc học này, đó là trực quan nghe (nghe 
ngôn ngữ, băng ghi âm), trực quan nhìn (tranh ảnh, mô hình, vật mẫu) và trực 
quan nghe nhìn (phim đèn chiếu, phim xinê, băng hình) nó phù hợp với đặc điểm 
tâm sinh lí lứa tuổi ở Tiểu học, tư duy cụ thể chiếm vai trò chủ định, tư duy trừu 
tượng còn hạn chế, ghi nhớ máy móc. Chính vì vậy, khi dạy cho học sinh cần 
phải đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng...
 Sử dụng thiết bị dạy học trong quá trình dạy và học là con đường kết hợp 
chặt chẽ giữa cái cụ thể và cái trừu tượng, bằng hành động vật chất, bằng ngôn 
ngữ bên ngoài để chuyển thành ngôn ngữ bên trong, phù hợp với đặc điểm nhận 
thức của học sinh Tiểu học. Sử dụng thiết bị dạy học chính là tạo điều kiện thuận 
lợi để giáo viên đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học và hoạt động theo 
 2 hướng đổi mới, tích cực hóa hoạt động của học sinh, cá thể hóa người học trong 
hoạt động học tập, rèn luyện, phát huy hết tài năng của mỗi giáo viên và tiềm 
năng của học sinh.
II/ CƠ SỞ THỰC TIỄN:
 Việc sử dụng thiết bị dạy học là một trong những nội dung của việc thực 
hiện chương trình sách giáo khoa. Để thực hiện tốt nội dung chương trình sách 
giáo khoa, ngành Giáo dục nói chung, các trường Tiểu học nói riêng đã được nhà 
nước đầu tư, trang thiết bị dạy học rất nhiều như: “ mô hình, vật mẫu, vật thực, 
ấn phẩm, tài liệu nghe nhìn, dụng cụ thí nghiệm, tranh ảnh,....” Nhưng việc sử 
dụng thiết bị dạy học đó như thế nào? Vào lúc nào? Đối tượng sử dụng?.... Để 
giờ dạy đạt hiệu quả, nhằm góp phần vào đổi mới phương pháp dạy học hiện nay 
“ Lấy học sinh làm nhân vật trung tâm”, “ Học đi đôi với hành”, “ Lí luận 
đi đôi với thực tiễn” là đòi hỏi cấp thiết của ngành Giáo dục, của các nhà 
trường, của giáo viên.
 Mặc dù hằng năm Phòng GD&ĐT TP Thanh Hóa có mở lớp bồi dưỡng 
hướng dẫn sử dụng thiết bị dạy học cho tất cả giáo viên trực tiếp đứng dạy các 
khối lớp. Nhưng việc sử dụng thiết bị - đồ dùng dạy học đang còn nhiều hạn chế, 
chưa quen với cách nghĩ, cách dạy của giáo viên nên chất lượng sử dụng chưa 
cao, chưa khai thác triệt để các tính năng sử dụng của nó, vì vậy hiệu quả sử 
dụng thiết bị - đồ dùng dạy học còn là vấn đề nan giải hiện nay trong các nhà 
trường.
 Năm học 2010 - 2011, Ban giám hiệu trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi - 
TP Thanh Hóa, luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm ra biện pháp khắc phục những khó 
khăn, vướng mắc trong việc sử dụng thiết bị - đồ dùng dạy học của giáo viên. Sử 
dụng như thế nào cho thật hiệu quả để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh, 
góp phần xây dựng nguồn lực con người trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước.
III/ THỰC TRẠNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG THIẾT BỊ - ĐỒ DÙNG DẠY HỌC HIỆN 
NAY Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN VĂN TRỖI – TP THANH HÓA.
 Trong những năm gần đây, Phòng GD&ĐT TP Thanh Hóa cùng với các 
nhà trường đã đặc biệt coi trọng việc sử dụng thiết bị trong quá trình dạy học, 
đồng thời tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra việc sử dụng đồ dùng dạy học, 
nhưng qua thực tế:
 Việc sử dụng đồ dùng dạy học của một số giáo viên hiện nay vẫn chưa đạt 
hiệu quả cao với những lí do:
* Về phía nhà trường: 
 - Cơ sở vật chất còn thiếu thốn chưa thực sự đáp ứng nhu cầu giáo dục trong 
thời kì đổi mới, đặc biệt là những trang thiết bị hiện đại như máy tính, máy chiếu 
, các thiết bị trợ giảng...
 - Cán bộ quản lí đôi lúc còn lỏng lẻo trong việc kiểm tra, đánh giá cách sử 
dụng TB-ĐDDH của giáo viên.
 3 * Về phía giáo viên:
 - Nhận thức của một số giáo viên đang còn chưa xác định đúng tầm quan 
trọng của việc sử dụng thiết bị trong quá trình dạy học theo đúng nghĩa của nó 
nên có những đồng chí có tâm lí ngại sử dụng hoặc lúng túng khi sử dụng.
 - Đội ngũ giáo viên, trình độ không đồng đều, đặc biệt phương pháp dạy học 
cũ đã ăn sâu vào tiềm thức của từng giáo viên, do đó đã ảnh hưởng không nhỏ 
đến việc sử dụng thiết bị dạy học. (Một số giáo viên cao tuổi việc cập nhật, sử 
dụng các thiết bị hiện đại ít nhiều còn hạn chế.)
 - Giáo viên hầu hết dạy 10 buổi/tuần không có thời gian nghiên cứu tài liệu, 
thời gian chuẩn bị đồ dùng, vì vậy đã hạn chế đến chất lượng sử dụng đồ dùng 
dạy học.
 - Việc sử dụng TB - ĐDDH ở một số tiết chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng.
* Về phía học sinh:
 - Khi sử dụng đồ dùng dạy học các em rất lúng túng trong thao tác kĩ thuật, 
hầu hết các em mới quan tâm đến hình thức bên ngoài chưa nhìn thấy cái giá trị 
bên trong của bộ đồ dùng.
 - Còn có học sinh chưa mang đầy đủ các bộ đồ dùng học tập cá nhân.
* Về phía Ban giám hiệu nhà trường:
 Qua các đợt tập huấn Ban giám hiệu đã nhận thức được tầm quan trọng và 
hiệu quả của việc sử dụng thiết bị - đồ dùng dạy học của giáo viên trong các tiết 
dạy. Luôn quan tâm đến các tiết dạy của giáo viên sử dụng giáo án điện tử với 
việc ứng dụng CNTT và việc sử dụng trang thiết bị hiện đại, để góp ý về thiết kế 
cũng như những cách sử dụng thiết bị nhằm khơi dạy trong giáo viên tinh thần 
học hỏi, khám phá, tìm tòi cách sử dụng đồ dùng hiệu quả nhất, đồng thời luôn 
giúp giáo viên sáng tạo cải tiến thiết bị được cấp sao cho sử dụng thật hiệu quả. 
Ngoài ra, nhà trường còn hướng dẫn giáo viên hưởng ứng tích cực trong phong 
trào “Tự làm đồ dùng dạy học” và các khối lớp đã thiết kế được một số bộ đồ 
dùng dạy học tự làm có hiệu quả cao trong dạy học. Qua các cuộc thi đồ dùng 
dạy học hằng năm, nhà trường được Phòng GD&ĐT TP xếp loại tốt. Điều đó đã 
góp phần không nhỏ trong việc đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với giai 
đoạn hiện nay. Qua thực tế chỉ đạo ở nhà trường, tôi cùng các đ/c trong Ban 
giám hiệu đã tìm ra được một số giải pháp để khắc phục thực trạng trên.
IV. NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC THỰC TRẠNG SỬ DỤNG TB-ĐD DẠY HỌC 
NHẰM TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH KHỐI LỚP 3
 Nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng TB-ĐDDH trong quá 
trình dạy học nên ngay từ đầu năm học Ban giám hiệu nhà trường đã dành nhiều 
thời gian bắt tay vào nghiên cứu và tìm tòi những giải pháp để sử dụng thiết bị 
dạy học được cấp và tự làm sao cho có hiệu quả trong các tiết dạy của giáo viên. 
Sau đây là một số giải pháp mà tôi đã vận dụng vào thực tế trong quá trình chỉ 
đạo nhà trường:
 4 GIẢI PHÁP 1: Thống kê, phân loại, lập danh mục thiết bị được cấp ở khối 3, 
xây dựng kế hoạch sử dụng.
 Thiết bị - đồ dùng được cấp ít khi được giáo viên xem xét trước và tìm 
hiểu cách sử dụng của nó như thế nào để xây dựng kế hoạch thực hiện nên thiếu 
sự chủ động trong quá trình diễn giải hay hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh kiến 
thức.
 Xuất phát từ những định hướng đổi mới hiện nay là coi trọng và khuyến 
khích dạy học trên cơ sở phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, độc lập của 
học sinh. Việc sử dụng thiết bị dạy học sẽ là cầu nối thiết thực nhất giữa người 
dạy và người học, giúp cho người học phát triển tư duy, nhận thức theo hướng 
lôgic, đó là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
 Vì vậy, để sử dụng đồ dùng có hiệu quả tôi đã tiến hành thực hiện qua 2 
nội dung sau:
1. Thống kê, phân loại, lập danh mục thiết bị được cấp ở khối 3:
 Tiến hành:
* Bước 1: Thống kê, phân loại, lập danh mục các thiết bị dạy học được cấp ở 
khối 3 có những loại thiết bị nào.
* Bước 2: Xác định mức độ sử dụng theo 3 mức độ “ Sử dụng dễ, sử dụng được, 
khó sử dụng”.
* Bước 3: Xác định tần số sử dụng theo hai mức độ “cao, thấp”.
Ví dụ: Đối với môn Toán tôi thống kê, phân loại như sau:
 Bảng 1A
 Tính năng sử dụng Tần số sử dụng
 TT Tên thiết bị Sử dụng Sử dụng Khó sử 
 Cao Thấp
 dễ được dụng
 1 Bộ số x x
 2 Bộ tấm đỏ x x
 3 Bộ chấm tròn x x
 4 Êke x x
 Lưới ô vuông hình chữ 
 5 x x
 nhật – hình vuông
 Bộ số từ 0 đến 9 các phép 
 6 x x
 tính, dấu các phép tính
 7 Mô hình đồng hồ X x
 8 Com pa x x
 9 Thước x x
 10 Lắp ghép hình x x
 11 Bảng nỉ x x
 12 Cân ( RO BEC VAN) X x
 5 Đối với môn Tự nhiên và xã hội tôi thống kê, phân loại như sau:
 Bảng 1B
 Tính năng sử dụng Tần số sử dụng
 Sử Sử Khó 
TT Tên thiết bị
 dụng dụng sử Cao Thấp
 dễ được dụng
 1 Tranh về cơ quan hô hấp x x
 2 Tranh về cơ quan tuần hoàn x x
 3 Tranh về cơ quan bài tiết nước tiểu x x
 4 Tranh về cơ quan thần kinh x x
 5 Các tấm thẻ tên các cơ quan x x
 6 Lược đồ các châu lục và các đại dương x x
 7 Quả địa cầu x x
 8 Mô hình Trái đất quay quanh Mặt trời x x
 Đối với các môn học khác tôi cũng tiến hành phân loại như thế, sau khi 
phân loại xong, tôi đầu tư thời gian tìm hiểu cách sử dụng các thiết bị khó sử 
dụng hoặc sử dụng với tần số thấp để xây dựng kế hoạch thực hành luyện tập 
khắc phục cách sử dụng đồ dùng dạy học khó sử dụng như đã thống kê ở trên 
cho giáo viên nắm vững.
2. Xây dựng kế hoạch thực hành luyện tập cách sử dụng đối với những thiết 
bị khó sử dụng hoặc sử dụng có tần số thấp:
 Để chủ động sử dụng các thiết bị khó sử dụng, tôi đã tiến hành xây dựng 
kế hoạch thực hành cho các tổ khối chuyên môn và Ban giám hiệu nhà trường 
đưa nội dung này vào nội dung sinh hoạt chuyên môn. Kế hoạch được xây dựng 
như sau:
 Bảng 1C
 Tên TB khó sử dụng hoặc Thời gian thực hành Thời gian sử dụng trong 
TT Môn
 sử dụng có tần số thấp tập sử dụng bài dạy
 1 Cân ( RO BEC VAN ) Toán Tuần 12/ tháng 11 Tuần 13/ tháng 12
 2 Mô hình đồng hồ Toán Tuần 23/ tháng 02 Tuần 24/ tháng 02
 Mô hình Trái Đất quay 
 3 TN&XH Tuần 29/ tháng 3 Tuần 30/ tháng 4
 quanh Mặt Trời
 4 ............................. ......... ...................... ........................
 Qua việc tìm hiểu, phân loại, xác định mức độ sử dụng, xây dựng kế 
hoạch thực hành luyện tập cách sử dụng cho giáo viên và tổ. Ban giám hiệu nhà 
trường cùng các thành viên trong tổ đã có cơ hội tiếp cận tìm ra cách sử dụng 
hiệu quả nhất và chủ động trong quá trình sử dụng thiết bị - đồ dùng dạy, để giờ 
dạy đạt hiệu quả.
 6 GIẢI PHÁP 2: Chuẩn bị đồ dùng dạy học nâng cao hiệu quả giờ lên lớp:
 Chuẩn bị đồ dùng dạy học là bước không thể thiếu đối với người giáo viên. 
Xác định được tầm quan trọng của nó trong dạy học, Ban giám hiệu đã yêu cầu 
giáo viên thực hiện qua các bước sau:
 + Đọc tài liệu, nghiên cứu bài dạy, sưu tầm tư liệu.
 + Chọn loại đồ dùng cho phù hợp với nội dung bài học.
 + Linh hoạt lựa chọn những bài học phù hợp để ứng dụng công nghệ thông 
tin, thiết kế giáo án điện tử với những hình ảnh minh họa sinh động thay thế cho 
việc chuẩn bị loại nhiều tranh ảnh...
Ví dụ: Một số tiết học giáo viên nên chọn phương án chuẩn bị giáo án điện tử sẽ 
thuận lợi rất nhiều: 
Môn Tiếng Việt: Bài “Cảnh đẹp non sông”: GV sưu tầm và giới thiệu được 
nhiều cảnh đẹp của đất nước nói chung và địa phương nói riêng.
Môn Toán: “Bài Tiền Việt Nam” : GV phóng to các tờ tiền với các mệnh giá 
khác nhau ( Tiền trước đây và tiền hiện nay để học sinh quan sát, so sánh...)
Môn TN- XH: Bài “Cá”: Qua các hình ảnh học sinh được quan sát kĩ các bộ 
phận của Cá: Vây, mang, xương sống... và đặc điểm, tên gọi các loài cá nước 
ngọt, nước mặn, nước lợ...
 + Chuẩn bị trước bài dạy 2 ngày để sửa sang, vận hành đồ dùng sao cho khoa 
học, thẩm mĩ và thành thạo.
 + Dự tính không gian, vị trí (đặt, treo, bày) đồ dùng dạy học cho phù hợp, học 
sinh quan sát dễ.
 + Phân loại đồ dùng theo trọng tâm bài dạy.
Ví dụ:
 - Đồ dùng phát huy năng lực quan sát, óc thẩm mĩ ( bộ đồ dùng môn Mĩ 
thuật)
 - Đồ dùng phát triển năng lực tư duy sáng tạo ( bộ đồ dùng Toán, TN&XH)
 - Đồ dùng nâng cao khă năng cảm thụ ( bộ đồ dùng môn Tiếng Việt )
 - Đồ dùng gợi mở trí tưởng tượng ( bộ đồ dùng kể chuyện, Tập làm văn)
 Bằng giải pháp này, giáo viên đã hoàn toàn chủ động, tự tin khi dạy học ở 
bất kì giờ học nào, đem lại hiệu quả cao trong giờ học, học sinh lĩnh hội được 
kiến thức và kĩ năng cơ bản của tiết học.
GIẢI PHÁP 3: Cách khắc phục, cải tiến những thiết bị - đồ dùng khó sử dụng 
hoặc sử dụng có tần số thấp:
 Sử dụng đồ dùng dạy học hợp lí, khoa học đem lại hiệu quả cao trong dạy 
học bởi vì kiến thức, kĩ năng ở Tiểu học dù ở mức độ nào cũng là trừu tượng đối 
với lứa tuổi các em. Để có thể giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức, kĩ năng ở 
mỗi bài học trước hết giáo viên phải tường minh được kiến thức, kĩ năng ấy ở 
trên các mô hình, mẫu vật. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh làm việc 
với các mô hình, mẫu vật cụ thể để lĩnh hội kiến thức, kĩ năng cho chính mình. 
 7 Một trong những phương tiện để tường minh kiến thức, kĩ năng cho HS họat 
động, lĩnh hội kiến thức là thiết bị - đồ dùng dạy học. Vì vậy để xây dựng được 
cách sử dụng thiết bị - đồ dùng dạy học có hiệu quả Ban giám hiệu đã yêu cầu 
giáo viên thực hiện theo các trình tự sau:
 * Bước 1: Quan sát kĩ đồ dùng đó có cấu tạo như thế nào? Tên gì? dạy 
môn nào? Bài gì?
 * Bước 2: Nêu lí do vì sao thiết bị này khó sử dụng hoặc sử dụng với tần 
số thấp; khó sử dụng ở khâu nào? Cách tháo gỡ ra sao?
 * Bước 3: Chọn những đồ dùng khó sử dụng hoặc sử dụng với tần số thấp 
để xây dựng cách khắc phục ( trong bảng 1C).
Ví dụ 1: Mô hình đồng hồ: Sử dụng mô hình đồng hồ, mới nhìn thì thấy dễ 
nhưng để học sinh “ thao tác đúng và thành thạo trên mô hình”, học sinh bước 
đầu hiểu được “ thời điểm, khoảng thời gian” thì cả một vấn đề cần được khắc 
phục. Để sử dụng mô hình này có hiệu quả, qua thực tế giảng dạy của giáo viên, 
tôi nhận thấy cần phải khắc phục một số nhược điểm sau:
 Khi dạy bài “Thực hành xem đồng hồ” Tiết 120&121 trang 123-125 ( 
SGK lớp 3).
 * Đối với giáo viên cần:
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học chu đáo, đầy đủ ( từ 6 đến 8 mô hình đồng hồ).
- Cần thao tác trên mô hình đồng hồ thành thạo, chính xác.
- Hướng dẫn học sinh cách quay kim đồng hồ, theo đúng chiều quay của kim 
đồng hồ.
- Hiểu sâu về biểu tượng về “ Thời điểm, khoảng thời gian”.
( Ví dụ: Chương trình phim hoạt hình bắt đầu lúc 8 giờ và kết thúc lúc 8 giờ 30 
phút; vậy chương trình này kéo dài bao lâu? Giáo viên quay kim đồng hồ thời 
điểm bắt đầu từ lúc 8 giờ và dừng lại đúng 8 giờ 30 phút; học sinh trả lời, GV 
chốt ý: Khoảng thời gian là từ khi bắt đầu một công việc đến khi kết thúc công 
việc đó).
 * Đối với học sinh:
- Học sinh còn lúng túng khi thao tác trên mô hình, đồng hồ.
- Vì vậy GV cần hướng dẫn cho HS thực hành nhiều trên mô hình đồng hồ, nhận 
xét cách quay kim đồng hồ, cách đọc giờ trên đồng hồ.
- Cần tổ chức cho HS tự nói về các khoảng thời gian thực hiện một công việc 
hằng ngày của mình, vừa nói vừa kết hợp quay kim đồng hồ.
( Ví dụ: Em tập thể dục lúc 6 giờ 5 phút, đến trường lúc 7 giờ kém 10 phút; 7 giờ 
em vào học và tan học lúc 11 giờ kém 20 phút...)
Tóm lại: Qua các bước làm như vậy học sinh đã:
+ Đọc thời điểm trên đồng hồ chính xác.
+ Bước đầu hiểu được biểu tượng thời điểm, khoảng thời gian và thao tác thành 
thạo trên đồng hồ.
 8 + Học sinh nêu được các hoạt động hằng ngày của bản thân, từ đó biết cách lập 
thời gian biểu một cách cụ thể trong học tập và sinh hoạt hàng ngày.
** Kết quả đạt được sau khi vận dụng giải pháp này như sau:
 Kết quả thao tác Kết quả kiến thức
 Lớp Sử Sử Sử 
 Tổng số HS dụng dụng dụng Giỏi Khá TB yếu
 tốt được kém
 23 em = 11 em = 21 em = 11 em = 2 em = 
 3C/34 HS 0% 0%
 67,6% 32,4% 61,8 % 32,4 % 5,8 %
 22 em = 13 em = 22 em = 11 em = 2 em = 
 3E/35 HS 0% 0%
 62,8% 37,2% 62,8% 31,5% 5,7%
 Ví dụ 2: Cân ROBECVAN (cân hai đĩa): Khi sử dụng đồ dùng dạy học này 
trong bài: “ Gam” tiết 65 trang 65 SGK. Cần chú ý những yêu cầu sau để nâng 
cao tần số sử dụng thiết bị này trong giờ học, nhằm phát huy tính tích cực của 
học sinh.
+ Giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng cho các nhóm hoạt động.
( Ví dụ: chuẩn bị các đồ vật phục vụ trong bài dạy như hoa quả, túi mì chính, túi 
đường, tí muối...)
+ Học sinh chuẩn bị các đồ dùng học tập như: hộp bút, sách vở, ...
+ Hướng dẫn học sinh lấy đồ vật phù hợp với quả cân.
 Bằng cách làm như vậy, giáo viên trong khối 3 đã tự tin khi sử dụng thiết 
bị này, đồng thời gây được hứng thú, hầu hết tất cả các đối tượng học sinh đều 
được tham gia một cách tích cực và chủ động, từ đó nâng cao được tần số sử 
dụng và đạt hiệu quả cao trong giờ dạy.
Ví dụ 3: Mô hình Trái Đất quay quanh Mặt Trời: Mô hình này dùng để dạy các 
bài từ “ Bài 60 đến bài 64 SGK TN&XH 3”. Đây là một mô hình rất cần thiết, 
nó giúp các em dễ tưởng tượng hơn, phù hợp với tâm lí lứa tuổi, kích thích được 
trí tò mò khám phá của HS. Học sinh tự tìm tòi và phát hiện kiến thức thông qua 
mô hình.
 Để đảm bảo được tần số sử dụng cao hơn ( sử dụng liên tục ) thì mô hình 
này cần khắc phục một số hạn chế sau đây:
+ Do sử dụng bằng pin nên dễ hư hỏng hệ thống điện ( pin chảy nước).
+ Tốn tiền và không chủ động trong quá trình sử dụng (đang sử dụng hết pin).
+ Tốc độ quay nhanh (học sinh khó quan sát và khó hình dung, khó phát hiện 
kiến thức mới).
 Từ những hạn chế nêu trên dẫn đến mô hình này có tần số sử dụng thấp vì 
giáo viên có tâm lí ngại sử dụng. Để khắc phục hạn chế này tôi đã tìm ra hướng 
cải tiến thiết bị này như sau:
 9 + Thay nguồn điện sử dụng pin bằng nguồn điện 220V; “ Bằng cách lắp một 
biến thế để dùng điện lưới sẵn có”.
+ Giảm tốc độ quay bằng cách thay bánh răng lớn hơn.
 Từ việc cải tiến rất nhỏ này mà “ Mô hình Trái Đất quay quay Mặt Trời” 
đã được giáo viên sử dụng với tần số cao, mang lại hiệu quả cao trong giờ học.
 Trên đây là một số ví dụ cụ thể, mang tính đặc trưng, còn đối với tất cả 
các môn học khác tôi cũng thực hiện như vậy và đã giúp giáo viên nhà trường 
thành công trong mỗi giờ lên lớp.
 Bằng giải pháp này, giáo viên đã hoàn toàn chủ động trong việc chuẩn bị 
và sử dụng thiết bị - đồ dùng dạy học trong quá trình dạy và học một cách khoa 
học, chất lượng, mang lại hiệu quả cao trong mỗi tiết dạy.
GIẢI PHÁP 4: Sử dụng đồ dùng dạy học trong tiết dạy đảm bảo tính khoa 
học và hợp lý:
 Qua thực tế giảng dạy của giáo viên tôi thấy:
Việc sử dụng đồ dùng dạy học hợp lí, hiệu quả sẽ mang lại chất lượng cao trong 
mỗi tiết dạy nên khi sử dụng cần chú ý:
+ Trình bày khoa học theo trình tự nội dung ( ví dụ: tranh 1, tranh 2, tranh 3, 
tranh...) đặt, treo, để nơi học sinh cả lớp dễ quan sát.
+ Từ khâu giới thiệu bài đến phát hiện kiến thức hay cất đồ dùng dạy học phải 
hợp lí. Lời giới thiệu nội dung hoặc câu hỏi gợi ý học sinh suy nghĩ về nội dung 
của giáo viên cần ăn khớp cùng thời điểm xuất hiện đồ dùng dạy học để nhận 
thức của học sinh thành mạch kiến thức liên tục, không bị gián đoạn.
+ Giáo viên cần chỉ vào những nội dung cần thiết ở đồ dùng dạy học, để nhấn 
mạnh trọng tâm của bài, không chỉ giới thiệu chung chung bằng lời, để học sinh 
có cái nhìn bao quát, từ đó học sinh hiểu sâu, nhớ lâu được kiến thức mà giáo 
viên cần truyền đạt.
+ Sử dụng theo đúng quy trình bài học ( treo, bày, đặt theo từng hoạt động của 
bài).
+ Hướng dẫn học sinh quan sát, tìm hiểu, khai thác đồ dùng dạy học thông qua 
hệ thống câu hỏi gợi mở của giáo viên để học sinh nắm bắt kiến thức mới.
+ Không đưa cùng một lúc nhiều đồ dùng ra giới thiệu, phân tích làm phân tán 
sự chú ý của học sinh.
 Tóm lại: Sử dụng đồ dùng dạy học trong tiết dạy đảm bảo tính khoa học 
hợp lý, đem lại hiệu quả cao trong giờ học mà trong thực tế giảng dạy của giáo 
viên đã thu được một số kết quả đáng khích lệ. (Giáo viên sử dụng đồ dùng dạy 
học thuần thục, gợi mở được kiến thức của bài dạy. Học sinh nắm bắt được kiến 
thức, hiểu và vận dụng tốt trong khâu thực hành).
GIẢI PHÁP 5: Nâng cao chất lượng, hiệu quả làm đồ dùng và cách sử dụng 
đồ dùng tự làm:
 10
            File đính kèm:
 sang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_hieu_qua_su_dung_thiet_bi_do.doc sang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_hieu_qua_su_dung_thiet_bi_do.doc




