Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm dạy thơ tứ tuyệt Hồ Chí Minh ở Lớp 7

Mặt khác, thơ tứ tuyệt là một thể thơ cổ với niêm luật chặt chẽ, lời ít ý nhiều, ngôn từ uyên bác nhưng đối tượng của chúng ta chủ yếu là học sinh dân tộc thiểu số, hầu hết các em không hứng thú với việc học văn, cộng với vốn từ ngữ nghèo nàn, khả năng cảm thụ văn học còn yếu, chưa biết cách phân tích các giá trị nội dung và nghệ thuật để hiểu các tác phẩm văn- thơ, nhất là cái đẹp cái hay trong thơ tứ tuyệt nói chung và trong thơ tứ tuyệt của Bác nói riêng.

doc13 trang | Chia sẻ: thiennga98 | Lượt xem: 529 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm dạy thơ tứ tuyệt Hồ Chí Minh ở Lớp 7, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa bạn. 2. Phương pháp nghiên cứu, gợi tìm Trước hết giúp các em quen dần với việc nghiên cứu bài thơ về nội dung và nghệ thuật. Phương pháp này giúp học sinh biết suy nghĩ, nghiên cứu một bài thơ tứ tuyệt theo một trình tự hợp lý. Nội dung, nghệ thuật, cấu trúc bài thơ, câu, chữ, vế, hình ảnh thơ. Giáo viên cần lựa chọn tác phẩm, kết hợp với bài thơ đang học với bài thơ nêu làm cơ sở để các em so sánh, đối chiếu từ đó mà hiểu bài một cách sâu sắc hơn. Ví dụ: Cho học sinh so sánh các bài: Thất ngôn bát cú đường luật với bài thơ thất ngôn tứ tuyệt. Các bài thơ tứ tuyệt ngũ ngôn với bài thơ tứ tuyệt thất ngôn, lục bát ... Cần hướng dẫn các em chú ý các câu trích dẫn, các lời chú thích, các chi tiết, hình ảnh nghệ thuật trong tác phẩm, trong sách giáo khoa. Các em chú ý từng đoạn thơ, khổ thơ, câu thơ, sự liên kết của các câu trong bài thơ. Cho học sinh diễn xuôi bằng miệng trên lớp. Phương pháp này giúp các em hiểu sâu hơn tác phẩm thơ tứ tuyệt, tự tiến hành phân tích, đánh giá. Phương pháp này cũng đòi hỏi các em phải biết phát huy ý kiến lập luận, có căn cứ dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Cho học sinh thảo luận ở nhóm, tổ. Lập đề cương phát biểu, thuyết trình về một ý nào đó trong tác phẩm thơ. Ở lớp không đủ thời gian nên phương pháp này, chủ yếu giáo viên gợi ý hướng dẫn để các em thực hiện khi chuẩn bị bài ở nhà. 3. Phương pháp phân tích Trước khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích bài thơ, giáo viên phải cho học sinh tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp của tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm thơ từ đó học sinh nắm được ý nghĩa, tư tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Ví dụ: Khi dạy hai bài thơ: “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh. Học sinh phải hiểu được hai bài thơ này Bác đều làm trong thời kỳ bị tù đày ở Quảng Châu - Trung Quốc (Từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943). Từ đó học sinh tìm hiểu về tập thơ “Nhật ký trong tù”. Cần giới thiệu sâu về Bác, Xuất xứ hai bài thơ và cho học sinh tự phát biểu về hiểu biết của các em, cảm xúc của các em về Bác. Để tìm hiểu ý nghĩa tư tưởng, nội dung bài thơ, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu cấu trúc tác phẩm thơ tứ tuyệt; từ cách gieo vần, câu, chữ, vế đối và hình ảnh thơ Bác, đặc biệt là các bài ở “Nhật ký trong tù” Bác viết bằng chữ Hán, nên cần giúp các em nắm chắc hơn về cấu trúc trên để phân tích, nêu bật nội dung bài thơ. a. Trình tự một bài thơ tứ tuyệt: Bốn câu của bài thơ tứ tuyệt có trình tự như sau: Câu 1: Khai: Mở vấn đề ra gọi là câu đề. Câu 2: Thừa: Nâng cao, triển khai ý câu khai gọi là câu thực. Câu 3: Chuyển: Chuyển ý mở rộng nội dung gọi là câu luận. Câu 4: Hợp: Tổng hợp, thâu tóm ý toàn bài gọi là câu kết. b. Cách gieo vần Cách gieo vần bằng và chỉ có một vần ở cuối các câu: 1, 2, 4. Ví dụ: Bài “Không ngủ được” Gieo vần anh. Một canh .... hai canh ... lại ba canh. Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành. Canh bốn canh năm vừa chợp mắt. Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh. Hay bài: “ Ngắm trăng” Gieo vần oa - a. Ngục trung vô tửu diệc vô hoa Đối thử lương tiêu nại nhược hà? Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt Nguyệt tòng song khích khán thi gia. c. Phép đối Các câu thực và luận buộc phải đối nhau chặt chẽ về ý, về lời và về thanh. Ví dụ: Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ. Bác nói lên nỗi thèm muốn được thưởng thức cảnh đêm trăng đẹp bên ngoài. Các câu thơ tuyệt bút ! hình ảnh, “Người” và “trăng” được nhà thơ đặt ở vị trí đối xứng nhau trong hai câu thơ đối ngẫu, kết hợp với hình ảnh “trăng” được nhân hoá một cách sinh động, tạo ra cảm giác “người” và “trăng” tuy kẻ ở ngoài người ở trong nhưng như một đôi bạn tâm tình, hoà hợp với nhau một cách rất hồn nhiên. d. Quy luật mở, đóng của thơ tứ tuyệt Trong bài thơ tứ tuyệt, hai tiếng đầu tiên rất quan trọng, nó quyết định ý tứ của bài thơ. Mở như thế nào thì phải đóng tương xứng. Bài thơ “Ngắm trăng” mở đầu bằng hai tiếng “Trong tù” như vặy từ trăng, đến việc ngắm trăng đều trong khuôn khổ của hai tiếng đó. “ Trong tù không rượu cũng không hoa” Hai tiếng trong tù nói về cái chung của hoàn cảnh thì những tiếng tiếp theo nói lên cái riêng của hoàn cảnh “không rượu cũng không hoa”; “Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ” câu này trong bài thơ tứ tuyệt của Bác chỉ nhắc lại điều đã nói ở trên, chi tiết chung nha mà Bác dùng “cửa sổ” . Người đọc tưởng chừng lặng lẽ dọc qua, nhưng đến câu thơ tiếp theo “Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ” thì câu trên không đứng một mình, nó là một mảng không thiếu được trong thơ tứ tuyệt, hai câu là hai vế của một câu đối. Bài thơ khép lại bằng hai tiếng “Nhà thơ”. Mở đầu là “Trong tù” kết thúc phải là “Người tù”, nhưng ở đây, trăng không ngắm người tù mà ngắm “nhà thơ”, cái hay trong cấu trúc là ở chỗ đó. Các phương pháp trên đều dạy thơ tứ tuyệt theo tinh thần đổi mới Sách giáo khoa ở trường THCS thì việc đọc thơ và phân tích thơ là hai phương pháp chủ yếu, tránh coi đọc là độc tôn. Ngoài hệ thống câu hỏi để học sinh thảo luận, phát biểu ý kiến, Giáo viên cũng cần bình giảng và giới thiệu thêm. Ngoài ra giáo viên còn cho các em sưu tầm các tác phẩm thơ về Bác, tạo điều kiện để các em cảm thụ, thâm nhập, chiếm lĩnh tác phẩm. Quá trình đọc thơ, cần chú ý phân tích từ, hình ảnh nghệ thuật của tác phẩm thơ. * Chú ý: Khi dạy tác phẩm thơ chú ý vừa đọc, vừa bình. Đọc bình và trong bình có đọc là biện pháp sóng đôi mang lại hiệu quả tốt. IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC. So với việc dạy - học các tác phẩm thơ nói chung, như các thể thơ tự do, thơ đường luật với thể thơ tứ tuyệt và nhất là các thể thơ tứ tuyệt của Bác, thì việc dạy học thông thường không đạt hiệu quả như mong muốn. Qua việc vận dụng các phương pháp trên tôi nhận thấy các tiết học đã có hiệu quả cao hơn nhiều. Thực tế qua các tiết dạy các bài thơ tứ tuyệt của Bác ở chương trinh Tôi đã khảo sát bằng các bài kiểm tra 15 phút cuối mỗi tiết học ở lớp 8a với kết quả tiếp thu đạt được như sau: Điểm Bài kiểm tra 1 Bài kiểm tra 2 Số lượng % Số lượng % Giỏi 2 6.7 4 13.3 Khá 5 16.7 7 23.3 Trung bình 17 56.6 16 63.4 Yếu kém 6 20.0 3 10.0 Tổng 30 100 30 100 Qua chất lượng các bài kiểm tra chúng ta thấy tỉ lệ học sinh khá giỏi tăng lên rõ rệt, tỉ lệ yếu kém được giảm xuống. Các em ham học và hứng thú học nên giờ học sôi nổi hơn, qua đó cũng củng cố thêm vốn từ Hán - Việt và năng lực viết các kiểu bài Nghị luận cho các em. V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Dạy - học thơ Bác, ai cũng cảm thấy rất dễ dàng mà lại rất khó. Dễ vì thơ Bác nói về những điều rất gần gũi, dễ hiểu với mọi người, chẳng có gì xa lạ, càng không rắc rối, cầu kỳ, không có cả đến sự uyên bác. Nhưng khó, vì rất khó đạt đến sự thấu hiểu những ý tứ sâu xa và cảm nhận được những giá trị nhiều mặt, nhiều đặc tính tưởng như khác biệt, thậm chí đối lập: Thép và tình, cổ điển và hiện đại, nhà cách mạng và bậc hiền triết, chiến sĩ và thi sĩ ... Bởi vậy khi giảng dạy, muốn đạt kết quả cao, người giáo viên phải động viên các em biết phát huy tính chủ động, tích cực sáng tạo và tư duy bằng việc ra các bài tập, câu hỏi gợi tìm để các em về nhà tự nghiên cứu, tìm tòi, tự tra cứu. Cho các em thực hành luyện tập viết những bài phát biểu cảm nghĩ ngắn sau khi học xong mỗi bài thơ. Ngoài ra còn hướng dẫn các em tìm hiểu về cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác, sự nghiệp văn, thơ của bác qua sách, báo để các em hiểu sâu sắc thêm về con người Cách mạng và con người nghệ sĩ trong thơ Bác, đã thống nhất, gắn bó đến mức khó có thể tách bạch ra từng phương diện được và sự thống nhất này thấm sâu vào các yếu tố của tác phẩm, từ cái nhìn về thế giới đến thế giới hình tượng thơ, câu, từ, hình ảnh, từ giọng điệu đến ngôn từ. Từ đó củng cố tình cảm kính yêu Bác Hồ của các em. Qua thơ Bác mà các em yêu thích bộ môn Văn hơn. PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN Trên đây là những ý chính của các phương pháp khi dạy thơ tứ tuyệt của Hồ Chí Minh ở khối 7, 8. Song để dạy và học đạt hiệu quả tốt nhất chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung sau: Thứ nhất: Ởû mỗi tiết học, một tác phẩm thơ cụ thể, người giáo viên phải giới thiệu, dẫn dắt vào bài và giới thiệu như thế nào còn phụ thuộc vào thực trạng học sinh và tài năng sư phạm của từng giáo viên cũng như đặc điểm, nội dung nghệ thuật cuả từng tác phẩm. Thứ hai: Khi dạy mỗi tác phẩm thơ tứ tuyệt giáo viên cần hướng dẫn cách đọc vì đọc đúng, đọc hay sẽ giúp học sinh hứng thú khám phá tác phẩm. Thứ ba: Hướng dẫn học sinh nghiên cứu, so sánh tác phẩm đang học với tác phẩm khác nhằm rút ra cái hay, cái đẹp của văn bản từ đó học sinh hiểu sâu sắc hơn về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Thứ tư: Giáo viên giúp học sinh đi sâu phân tích để làm sáng tỏ tư tưởng tình cảm mà tác giả gửi gắm vào tác phẩm văn học. Nói chung việc dạy và học thơ tứ tuyệt của Bác, cụ thể bằng nhiều con đường, người giáo viên cần dựa vào đối tượng mà sử dụng các phương pháp cho hợp lý để đạt kết quả tốt hơn. Học sinh yêu thích, ham học và làm được thơ tứ tuyệt. II. KIẾN NGHỊ 1. Đối với giáo viên Cần phát huy tính chủ động, tích cực sáng tạo và tư duy của các em bằng việc ra các bài tập phát biểu cảm nghĩ, câu hỏi gợi tìm để các em nghiên cứu, tìm tòi. Chú trọng vào việc giải thích kĩ các yếu tố Hán- Việt trong để học sinh có thể hiểu sâu sắc nội dung tư tưởng của tác phẩm. Thường xuyên kiểm tra việc học bài và làm bài tập của học sinh để tạo cho học sinh tâm thế chủ động trong việc chuẩn bị bài ở nhà. 2. Đối với học sinh Cần chuẩn bị bài kĩ bài học trước khi lên lớp. Tự xây dựng sổ tay văn học để ghi chép, sưu tầm những bài thơ tứ tuyệt yêu thích cũng như ghi chép những yếu tố Hán- Việt khó nhớ, khó thuộc để tích lũy thêm nội dung kiến thức và vốn từ từ ngữ. Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong việc giảng dạy thơ tứ tuyệt ở khối 7 Rất mong được sự đóng góp ý kiến, trao đổi của các đồng chí, đồng nghiệp để việc dạy môn Ngữ văn không còn là nỗi trăn trở của riêng giáo viên bộ môn chúng ta. Buôn Ma Thuột, ngày 10/ 03/ 2011 Người viết Dương Phượng Khánh

File đính kèm:

  • doc111.doc