Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm bồi dưỡng, phát triển học sinh giỏi Quốc gia môn Tiếng Anh
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm bồi dưỡng, phát triển học sinh giỏi Quốc gia môn Tiếng Anh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
1. Mở đầu 01
1.1. Lý do chọn đề tài 02
1.2. Mục đích nghiên cứu 02
1.3. Đối tượng nghiên cứu 02
1.4. Phương pháp nghiên cứu 03
1.5. Phạm vi nghiên cứu 03
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận 03
2.2. Thực trạng vấn đề 04
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết 05
2.3.1. Khơi dậy đam mê cho học sinh. 05
2.3.2. Chọn học sinh 06
2.3.3.Chọn giáo viên. 06
2.3.4. Lên thời khóa biểu, quan tâm tới những môn học khác của học 09
sinh.
2.3.5. Rèn tính tự học của học sinh, hướng dẫn học sinh học đúng 10
phương pháp.
2.3.6. Cung cấp tài liệu, kiểm tra, đánh giá sự tiến bộ của đội tuyển. 10
2.3.7. Phối hợp với phụ huynh học sinh 13
2.3.8. Phân công giáo viên bồi dưỡng đội tuyển quốc gia một cách hợp 13
lý.
2.3.9. Chiến lược đối với đội tuyển.
15
2.4. Kết quả đạt được
16
3. Kết luận và kiến nghị.
17
1 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi không chỉ là việc thực hiện nhiệm vụ
chung mà còn là yếu tố thúc đẩy phong trào học tập, giảng dạy của giáo viên và
học sinh. Thông qua giảng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi mà năng lực của giáo
viên, học sinh được nâng lên. Và chính những kết quả thi học sinh giỏi đã góp
phần khích lệ giáo viên cũng như học sinh tự tin hơn vào năng lực bản thân,
mạnh dạn và năng động hơn trong giảng dạy và học tập. Đặc biệt là giúp học
sinh vững tin hơn khi tham gia các kì thi chọn học sinh giỏi.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn tiếng Anh, những năm học
vừa qua tôi được nhà trường tín nhiệm, giao nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi.
Tôi đã trăn trở, học hỏi kinh nghiệm và nghiên cứu, tìm ra các phương pháp để
làm sao giúp học sinh đạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia.
Trong năm học 2013-2014 đội tuyển HSG mà tôi đảm nhận là lớp 11AV,
năm học 2014-2015 tôi tiếp tục giảng dạy lớp 12AV, các em đã tham các kỳ thi
HSG cấp tỉnh đạt kết quả tốt, nhưng đối với kỳ thi HSG quốc gia kết quả chưa
thành công. Khi lên lớp 12 một số em quyết định bỏ kỳ thi HSG quốc gia, số
khác nếu đồng ý tham gia thì các em cũng chẳng thiết tha vì các em lo lắng cho
kỳ thi đại học nhiều hơn. Tôi tự hỏi phải chăng do bản thân tôi chưa thật sự có
những phương pháp phù hợp trong việc bồi dưỡng HSG.
Từ lí do trên, tôi chọn vấn đề MỘT SỐ KINH NGHIỆM BỒI DƯỠNG,
PHÁT TRIỂN HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA MÔN TIẾNG ANH làm đề tài nghiên
cứu.
1. 2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sẽ giúp người dạy nhận ra những hạn chế ở phương
pháp và chiến lược bồi dưỡng, từ đó biết điều chỉnh để đạt hiệu quả cao. Với
mục đích là rút kinh nghiệm cho chính mình, chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp
trong và ngoài nhà trường tôi đã viết đề tài này.
1. 3. Đối tượng nghiên cứu
2 Trong phạm vi đề tài này tôi tập trung phân tích về tính hiệu quả của
phương pháp, chiến lược bồi dưỡng HSG mà tôi đã áp dụng.
1. 4. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này tôi sử dụng phương pháp thực nghiệm khoa học, phân
tích, so sánh, khái quát, tổng hợp.
1. 5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề sau: Những biện pháp đã áp dụng có
hiệu quả vào việc bồi dưỡng và phát triển HSG quốc gia.
Thời gian nghiên cứu áp dụng kinh nghiệm từ đầu năm học 2015-2016
đến hết học kỳ I, năm học 2016-2017.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
Có lẽ bất kỳ giáo viên nào cũng có thể thực hiện được việc giảng dạy cho
học sinh nắm bắt được chương trình nhưng việc bồi dưỡng HSG không phải
giáo viên nào cũng đảm nhận được. Theo tôi, một giáo viên bồi dưỡng HSG
muốn có hiệu quả thì cần đảm bảo được các yếu tố sau:
- Trình độ chuyên môn: Đây là tiêu chuẩn hàng đầu và có tính chất quyết
định trong quá trình bồi dưỡng HSG, bởi lẽ nguồn kiến thức mà học sinh lĩnh
hội được cần phải chuẩn xác, phong phú.
- Tinh thần trách nhiệm: Muốn có kết quả tốt, người dạy phải có tinh thần
trách nhiệm đối với chất lượng học tập của học sinh mình, trách nhiệm với sự tin
tưởng của ban giám hiệu và đồng nghiệp. Giáo viên phải đặt trách nhiệm lên
hàng đầu và có tấm lòng hy sinh, không tính toán, luôn xem thành tích của học
sinh là niềm vui trong công việc giảng dạy của mình.
- Uy tín: Để học sinh nhiệt tình theo học đội tuyển, giáo viên phải tạo
được niềm tin cho các em, cho các em thấy được việc bồi dưỡng HSG là quyền
lợi, là vinh dự của các em. Muốn làm được điều đó, giáo viên phải có được uy
tín đối với học sinh. Uy tín của giáo viên không chỉ thể hiện ở chuyên môn mà
còn thể hiện ở đạo đức nghề nghiệp.
3 - Thời gian: Vấn đề thời gian là một yêu cầu rất quan trọng, nếu giáo viên
không có đủ thời gian thì việc bồi dưỡng không thể đảm bảo được. Đăc biệt là
thời gian dành để nghiên cứu chuyên môn, tìm tòi tài liệu phù hợp, soạn đề kiểm
tra khảo sát chất lượng đội tuyển, thời gian chấm bài v,v Nếu tôi dành nhiều
thời gian cho hoạt động khác như năm học 2013-2014, 2014-2015 thì tôi không
thể đầu tư nhiều cho công tác bồi dưỡng như hai năm này. Hơn nữa, việc bồi
dưỡng HSG là là một quá trình lâu dài, do vậy chúng ta cần có kế hoạch ôn thi
từ lớp 10.
2. 2. Thực trạng vấn đề
Trong quá trình bồi dưỡng tôi nhận thấy học sinh không nỗ lực hết mình
để tham gia đội tuyển học sinh giỏi vì các em còn có nhiều mối lo ngại, đặc biệt
là khi các em lên lớp 12. Các em cảm thấy để đạt được giải HSG quốc gia là một
vấn đề quá hão huyền, ngoài tầm với của các em. Thực tế này có lý do riêng của
nó, thứ nhất là chất lượng đầu vào chưa cao nhưng trong thời gian học THPT
các em phải tham gia nhiều kỳ thi HSG. Vì vậy các em phải học dồn dập quá
nhiều kiến thức trong thời gian ngắn khiến các em choáng ngợp, chán nản. Thứ
hai là các kỳ thi HSG có nội dung yêu cầu hoàn toàn khác nhau khiến các em
không tài nào xoay xở kịp. Nội dung kỳ thi Olympic khu vực khác hẳn kỳ thi
HSG quốc gia. Do đó các em dốc sức ôn luyện nhưng hiệu quả không cao vì các
kỳ thi khá gần nhau. Cụ thể, kỳ thi HSG tỉnh lớp 12 tổ chức vào đầu tháng 11,
kỳ thi HSG quốc gia vào đầu tháng 1, kỳ thi HSG Olympic cấp tỉnh vào đầu
tháng 3, còn kỳ thi Olympic khu vực vào đầu tháng 4. Khi học sinh liên tiếp thất
bại trong những kỳ thi HSG, các em sẽ thất vọng về bản thân và không thể
không thất vọng về giáo viên và nhà trường. Lý do thứ ba là học sinh không tự
tin khi thi đại học vì các em đã phải mất rất nhiều thời gian để ôn thi HSG, các
em đã học loa qua những môn còn lại. Chính vì lẽ đó phần lớn các em quyết
định bỏ đội tuyển giữa chừng. Điều đó hoàn toàn hợp lý bởi mọi học sinh cũng
như mọi bậc phụ huynh đều mong muốn các em có được tấm vé vào trường đại
học. Thứ tư là vấn đề phân công giáo viên bồi dưỡng bồi dưỡng hợp lý.
4 Trong năm học 2013-2014, đội tuyển mà tôi đảm nhận đầu tiên của
trường chuyên Nguyễn Chí Thanh là khối 11 (các em được chuyển từ trường
THPT Chu Văn An sang). Sau khi được bồi dưỡng 2 tháng, các em tham dự kỳ
thi HSG tỉnh vào đầu tháng 11, có hai em tiếp tục tham gia thi HSG quốc gia
vào đầu tháng 1. Kết quả không cao (9.2 và 9.0). Sau đó các em lại thi Olympic
khu vực vào đầu tháng 4. Các em học rất chăm chỉ nhưng kết quả cũng chỉ gần
đạt huy chương đồng mà thôi. Học sinh rất buồn, các em đã khóc khi biết kết
quả. Sau đó các em chán nản vì thất bại liên tiếp. Lên lớp 12, không em nào
muốn thi HSG quốc gia nữa vì năm lớp 11 các em dành thời gian quá nhiều để
luyện thi Anh văn, những môn khác bị sa sút rõ rệt. Tuy nhiên có một em quyết
định tham gia thi HSG quốc gia chỉ vì thương cô giáo phụ trách. Theo tôi được
biết, trong thời gian luyện đội tuyển quốc gia em ấy đã dành thời gian ôn thi đại
học môn Toán, Lý cũng bằng với thời gian ôn thi Anh văn. Tôi không có quyền
ngăn cản em được vì em phải quyết định cho tương lai của chính mình. Các em
không muốn bị thi trượt kỳ thi đại học, gia đình các em cũng vậy, đó là điều
đương nhiên. Điều này khiến tôi phải suy nghĩ đề có chiến lược phù hợp đối với
đội tuyển của năm học tiếp theo.
Kết quả kỳ thi HSG quốc gia của hai năm học đầu tiên.
TT Họ tên Lớp Năm học Lớp Năm học
2013-2014 2014-2015
1 Trần Thiện Vĩnh 11TO 9.0 12TO 7.9
2 Phạm Minh Tiến 11AV 9.2 12AV Không tham gia
3 Nguyễn Thị Như Quỳnh 11AV Không tham gia 12AV 9.8
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
2.3.1. Khơi dậy đam mê cho học sinh
Đây là bước đầu tiên tôi thực hiện đối với học sinh trong lớp mà tôi đảm
nhận. Đam mê là yếu tố quyết định sự thành công của một học tham gia đội
tuyển. Tôi kể cho học sinh nghe về quá khứ của tôi, phương pháp học tập và
thành tích của tôi khi còn là học sinh cấp I,II,III và thời sinh viên, thậm chí là cả
khoảng thời gian làm nghề giáo giáo viên. May mắn cho tôi là đã từng học hai
5 ngoại ngữ tại trường đại học, tôi đã gặp khó khăn như thế nào khi bắt đầu học
ngoại ngữ thứ hai (tiếng Anh) vì tôi chưa hề học tiếng Anh ở thời phổ thông và
tôi đã làm gì để tiến xa bạn bè. Tôi truyền lại kinh nghiệm của mình cho các em
và tôi kết luận rằng:
“Không có gì là không thể, chỉ có thiếu thời gian thôi các em ạ. Các em cứ cố
gắng nỗ lực như cô đã từng làm xem được không nhé!”. Thật đơn giản, một tấm
gương rất thực để các em noi theo.
Lý thuyết phải đi đôi với thực hành, việc quan trọng hơn để học sinh đam
mê thật sự là giáo viên dạy bồi dưỡng phải vững vàng về chuyên môn, kiến thức
phải sâu, rộng, am hiểu về những lĩnh vực khác ngoài chuyên môn. Trong quá
trình học bồi dưỡng, học sinh càng ngưỡng mộ giáo viên về trình độ chuyên
môn thì các em lại càng đam mê.
Sự tận tâm của giáo viên đối với học sinh đội tuyển cũng góp phần không
kém để khơi dậy niềm đam mê nơi các em. Một khi giáo viên dốc hết nhiệt
huyết để giảng dạy, quan tâm tới hoàn cảnh và động viên các em đúng mức,
đúng lúc các em sẽ rất trân trọng và tự nhủ mình cố gắng học giỏi hơn để không
phụ lòng cô giáo. Ngoài ra, trong những tuần nghỉ hè của năm lớp 10 tôi dành
tất cả những buổi rảnh rỗi của tôi để đưa học sinh về nhà dạy cho các em. Mặc
dù xa xôi, các em trân trọng sự quan tâm của tôi và các em đi học đều đặn.
2.3.2. Chọn học sinh
Dĩ nhiên một tiêu chí không thể thiếu khi tôi tìm chọn học sinh là những
em có niềm đam mê. Nếu phát hiện thấy một số em năng lực ban đầu chưa tốt
nhưng các em thực sự muốn vươn lên vì các em yêu thích thật sự, tôi mạnh dạn
chọn các em vào đội tuyển để phát triển dần dần. Bởi nguồn học sinh giỏi thực
sự đầu lớp 10 hầu như rất ít.
Sau khi có kết quả tuyển sinh khối 10, ban giám hiệu phân công tôi dạy
một số chuyên đề cho lớp 10 chuyên Anh trong hè khoảng một tháng. Trong
thời gian này tôi quan sát để chọn những học sinh nào tiếp thu tốt chuyên đề mà
tôi đã dạy, đồng thời tìm hiểu để biết thêm về thành tích học tập ở cấp II của
6 những em đó. Nếu có thể, tôi liên lạc với giáo viên đã dạy các em ấy ở cấp II để
rõ thêm về tinh thần học tập của các em.
Vào thời gian học chính khóa của đầu năm lớp 10, trong quá trình giảng
dạy vài tuần đầu, tôi theo dõi để biết thêm về kỹ năng nghe, nói, viết của các em
để lưu tâm phát triển sớm những em có ưu thế về một số kỹ năng năng cần thiết
khi học ngoại ngữ.
2.3.3. Chọn giáo viên
Giáo viên là yếu tố rất quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại
trong công tác bồi dưỡng HSG. Chúng ta cần chọn giáo viên bồi dưỡng theo
đúng thế mạnh của họ. Tôi chọn cô giáo trẻ Trần Thị Ngọc Linh phụ trách phần
Listening ngay từ đầu năm lớp 10. Thực tế học sinh lớp tôi chưa hề luyện
listening khi còn học THCS nên cần có giáo viên dìu dắt các em từ bước cơ bản.
Tôi nghĩ kỹ năng này cần một giáo viên trẻ để có thời gian tìm tòi tài liệu dạy
trên lớp, giao bài tập về nhà, chấm bài. Ngoài ra, giáo viên trẻ tuổi có khả năng
nghe tốt hơn giáo viên lớn tuổi. Đồng thời với việc phát huy điểm mạnh của
giáo viên trẻ, tôi phải có trách nhiệm giúp họ nghiên cứu nâng cao chuyên đề
khác. Vì vậy tôi mạnh dạn phân công cô Ngọc Linh dạy phần cấu tạo từ (Word
formation) sau khi hướng dẫn tỉ mỉ cách soạn chuyên đề cho cô Ngọc Linh.
Thực ra, theo tôi hai chuyên đề này có liên quan mật thiết với nhau nên tôi phân
công một giáo viên đảm nhận. Nếu dạy phần cấu tạo từ, cả giáo viên và học sinh
đều có vốn từ vựng phong phú, điều này giúp ích rất nhiều cho việc luyện nghe
của cô và trò.
Lịch bồi dưỡng HSG khối 10 năm học 2015-2016 ( 32 tuần: từ 9/2015 – 5/2016)
TT Thời gian Giáo viên Chuyên đề giảng dạy
1 Chiều thứ 2 Lê Thị Liên Reading
Lexico-grammar
2 Chiều thứ 4 Lê Thị Liên Speaking
Writing
Describing graphs
3 Chiều thứ 6 Trần Thị Ngọc Linh Listening
7 Word formation
Giáo viên phụ trách đội tuyển cực kỳ quan trọng, phải có khả năng bao
quát hết tất cả mọi lĩnh vực ngữ pháp cũng như các kỹ năng nghe, nói đọc, viết.
Với tư cách là giáo viên phụ trách, tôi đảm nhận tất cả những phần còn lại: dạy
tất cả những chuyên đề ngữ pháp, luyện đọc hiểu, nói, viết luận, viết biểu đồ, từ
vựng. Hơn thế nữa, giáo viên phụ trách cần thỉnh thoảng kiểm tra chất lượng học
sinh học chuyên đề do giáo viên khác đảm nhận để biết các em đang ở mức độ
nào và tiếp tục hướng dẫn giáo viên điều chỉnh cách dạy. Và nếu cần, giáo viên
phụ trách tự chủ động bồi bổ thêm cho các em các chuyên đề do giáo viên khác
đảm nhận. Nếu giáo viên phụ trách chỉ nắm được vài chuyên đề mình đảm nhận
thôi thì không đủ khả năng để đánh giá năng lực học sinh khi tiếp cận đề HSG
quốc gia. Tiến hành bồi dưỡng cấp tốc trong vòng 2 tháng 9, 10, tôi chọn hai em
khá nhất đội tuyển tham gia kỳ thi HSG cấp tỉnh lớp 12. Kết quả rất tốt: em
Phạm Quang Duy đạt giải nhì, em Huỳnh Tiến Đạt đạt giải khuyến khích. Từ
tháng 11 đến hết năm học lớp 10, tôi và cô Ngọc Linh tiếp tục bồi dưỡng như đã
phân công để phát triển dần những em khác nữa vì lực học của các em chênh
lệch nhau quá nhiều, đồng thời nâng tầm cho những em giỏi hơn và chăm hơn.
Kết quả thi chọn HSG lớp 12 cấp tỉnh năm học 2015-2016:
TT Họ và tên Lớp Điềm Giải
1 Phạm Quang Duy 10AV 15.3 Nhì
2 Huỳnh Tiến Đạt 10AV 12.5 KK
Tuy nhiên có một số kỹ năng cần cho học sinh được học giáo viên khác
nữa để học sinh có thể học được những kinh nghiệm khác nhau từ những giáo
viên khác nhau. Hơn nữa, khi một giáo viên đảm nhận quá nhiều lĩnh vực thì
không đủ thời gian để nghiên cứu thực sự chuyên sâu tất cả các chuyên đề. Do
đó thời gian bồi dưỡng HSG trong hè cuối năm lớp 10, tôi phân công cô Dương
Thị Thùy Trang dạy phần Speaking và Writing essays trong 10 buổi. Đây cũng
là những kỹ năng thuộc về thế mạnh của cô Thùy Trang. Và hai kỹ năng này có
8 sự liên quan hỗ trợ nhau, tiện lợi cho việc chuẩn bị của giáo viên và việc học của
học sinh.
Có một điều may mắn là năm học 2016-2017 có một giáo viên nước ngoài
về dạy tại trường chuyên Nguyễn Chí Thanh. Đây là cơ hội để học sinh làm
quen với giọng nói của người bản xứ, đồng thời cách dạy của thầy Michael chủ
yếu thiên về hoạt động trò chơi, giải trí nên cũng góp phần bớt căng thẳng cho
học sinh. Thầy Michael rất hay khen dù học sinh chưa nói tốt, phần nào giúp học
sinh tự tin khi học cùng thầy.
Vào năm học 2016-2017, các em lên lớp 11. Tôi và cô Trần Thị Ngọc
Linh tiếp tục bồi dưỡng các phần tương tự năm học cũ đã phân công.
Lịch bồi dưỡng HSG khối 11 năm học 2016-2017 ( 6 tuần: Từ 12/9 –
26/10/2016)
TT Thời gian Giáo viên Chuyên đề giảng dạy
1 Chiều thứ 2 Lê Thị Liên Lexico-grammar
Reading
Writing
Describing graphs
Speaking
Mock Tests
2 Chiều thứ 4 Michael Li Wang Speaking
3 Chiều thứ 6 Trần Thị Ngọc Listening
Linh Word formation
2.3.4. Lên thời khóa biểu, quan tâm tới những môn học khác của học sinh
Lịch bồi dưỡng HSG là lịch ngoài giờ chính khóa, nên giáo viên cần lưu
tâm để không ảnh hưởng nhiều đến việc học môn khác của các em. Theo quy
định của trường, bồi dưỡng HSG 2 buổi / tuần (chiều thứ 2, 4). Tuy nhiên tôi
động viên các em học bồi dưỡng thêm một buổi ( chiều thứ 6). Thỉnh thoảng học
sinh cần kiểm tra định kỳ nhiều môn vào chiều thứ 7, tôi cho các em nghỉ học
bồi dưỡng chiều thứ 6.
9 Một khi các em thấy việc bồi dưỡng HSG không mất quá nhiều thời gian,
không ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các môn khác thì các em mới yên
tâm tham gia đội tuyển và gia đình các em cũng yên tâm cho phép các em tiếp
tục.
Trong quá trình dạy bồi dưỡng tôi luôn theo dõi kết quả học tập các môn
khác của học sinh, thỉnh thoảng tôi trao đổi với các em về tình hình tiếp thu các
môn khác và nhắc nhở các em không bỏ lơ một số môn quan trọng trong khối thi
đại học mà các em đã chọn. Thực ra việc này rất quan trọng, bởi vì nếu học sinh
lơ là những môn khác, các em sẽ không yên tâm với khối thi đại học và không
sớm thì muộn, các em sẽ bỏ đội tuyển giữa chừng.
2.3.5. Rèn tính tự học của học sinh, hướng dẫn học sinh học đúng phương
pháp
Tự học là yếu tố tiên quyết đối với những em học sinh muốn đạt giải quốc
gia. Nếu học thông minh nhưng không có tính tự học sẽ thất bại hoàn toàn.
Nhưng giáo viên không thể bảo các em tự học là các em sẽ thực hiện. Kinh
nghiệm của bản thân cho thấy, một khi học sinh cảm thấy khâm phục giáo viên
bồi dưỡng, các em sẽ có khát khao được thông thạo tiếng Anh như giáo viên, các
em tự nhủ mình cố gắng chăm học.
Tuy nhiên, phương pháp tự học cũng không kém phần quan trọng và cần
có sự chỉ dẫn tỉ mỉ của giáo viên. Tôi hướng dẫn kỹ cho học sinh tự học, tự
luyện từng kỹ năng cụ thể như thế nào cho hiệu quả. Ví dụ: muốn luyện kỹ năng
viết luận, trước hết học sinh phải nâng cao sự am hiểu về kiến thức xã hội. Do
đó các em cần xem thời sự trong nước, thời sự nước ngoài, tăng cường đọc báo
tiếng Việt, tiếng Anh hoặc ghi nhận thông tin qua các bài đọc hiểu tiếng Anh
v,v Những việc này các em có thể tự học mọi nơi, mọi lúc qua TV, điện thoại,
báo chí hoặc bất cứ phương tiện truyền thông nào. Trong quá trình đọc tài liệu
tiếng Anh, các em cần thu thập những cụm từ đã được tác giả dùng rất hay và rất
tự nhiên trong văn phong viết để học tập. Nếu học sinh làm được như vậy, sau
khi các em được giáo viên dạy phương pháp viết luận xong, các em viết bài với
những lập luận thuyết phục người đọc.
10
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_boi_duong_phat_trie.docx