Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới kiểm tra đánh giá trong dạy học lịch sử THCS
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới kiểm tra đánh giá trong dạy học lịch sử THCS, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 A.ĐẶT VẤN ĐỀ
I.LỜI MỞ ĐẦU
 Trong thời gian qua, cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo 
khoa, đổi mới phương pháp dạy học thì vấn đề đổi mới trong kiểm tra đánh 
giá là khâu hết sức quan trọng trong quá trình giảng dạy và học tập.
 Kiểm tra đánh giá nhằm làm sáng rõ tình hình lĩnh hội kiến thức, sự 
hình thành kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh, bổ sung, củng cố, hệ thống hoặc khái 
quát hóa kiến thức đã học, đồng thời chuẩn bị cho việc lĩnh hội kiến thức mới. 
Mặt khác, qua kiểm tra, đánh giá học sinh, giáo viên có thể tự đánh giá việc 
giảng dạy của mình. Vì vậy, kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng không 
thể thiếu của quá trình dạy học, là một trong những biện pháp để nâng cao 
chất lượng dạy học.
 Kiểm tra đánh giá không chỉ là công việc của giáo viên, mà còn là của 
cả học sinh. Giáo viên kiểm tra kết quả học tập của học sinh. Học sinh tự 
kiểm tra đánh giá việc học tập của mình và kiểm tra đánh giá lẫn nhau.
II.THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
 1. Thực trạng
 Thực tế cho thấy, việc kiểm tra đánh giá (bao gồm kiểm tra thường 
xuyên và định kì) vẫn được tiến hành để thúc đẩy học sinh học tập, nhưng đa 
số học sinh chưa có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của môn học, cho 
đó là “môn phụ”, ngại học. Mặt khác, một bộ phận giáo viên chưa nhận thức 
đúng tầm quan trọng của việc kiểm tra đánh giá, cho rằng chỉ cần các em nắm 
được kiến thức cơ bản trên lớp là được. Hoặc nếu có kiểm tra thì cũng chỉ 
kiểm tra kiến thức, chứ chưa chú trọng kiểm tra kĩ năng, thái độ, tư tưởng, 
tình cảm và khả năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Hình thức kiểm tra 
chủ yếu vẫn là giáo viên kiểm tra học sinh, chưa chú ý đến sự đánh giá của 
học sinh với học sinh, tự đánh giá của học sinh. Các hình thức kiểm tra vẫn 
còn đi theo lối mòn.
 1 2. Kết quả (hiệu quả của thực trạng trên)
 Thực tế cho thấy, với cách làm cũ, học sinh còn lười học, chưa có sự 
say mê với môn học. Nhiều học sinh còn chưa nắm vững kiến thức, mà chỉ 
học thuộc một cách máy móc. Học sinh thường trả lời câu hỏi của giáo viên 
đưa ra thông qua việc thụ động nhìn vào sách giáo khoa, thậm chí có một bộ 
phận học sinh còn đọc y nguyên sách giáo khoa khi trả lời câu hỏi. Học sinh 
chỉ muốn giải quyết các vấn đề hoặc trả lời các câu hỏi đơn giản, còn các vấn 
đề mang tính tổng hợp, phân tích, so sánh thì học sinh còn lúng túng
 Kiểm tra đánh giá mới chỉ tập trung vào việc giáo viên đánh giá học 
sinh, ít tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau. Một 
bộ phận giáo viên còn chưa thấy hết vai trò của kiểm tra đánh giá, do vậy, 
việc ra đề kiểm tra nhiều khi còn qua loa, nhiều giáo viên ra đề kiểm tra với 
mục đích lam sao cho dễ chấm nên kết quả đánh giá chưa khách quan. Việc 
lập ma trận chưa đúng theo yêu cầu, hệ thống câu hỏi không phù hợp với ma 
trận, không phân hóa được đối tượng học sinh..
 Để khắc phục những quan điểm sai lệch đó, đồng thời để lôi cuốn học 
sinh tích cực học tập môn Lịch sử thì nhất thiết phải đổi mới việc kiểm tra 
đánh giá.
 Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, tôi đã mạnh dạn 
nghiên cứu đề tài “ Đổi mới kiểm tra đánh giá trong dạy học lịch sử THCS”
 2 B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
 1. Đổi mới nội dung, hình thức kiểm tra thường xuyên
 2. Đổi mới ra đề kiểm tra định kì
II.CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
 1. Nội dung kiểm tra đánh giá
 Nội dung kiểm tra đánh giá của môn học cần bao gồm cả các mặt kiến 
thức, kĩ năng, thái độ. Song chủ yếu tập trung vào kiểm tra, đánh giá kiến 
thức và kĩ năng của học sinh
 Về mặt kiến thức, yêu cầu học sinh phải nhớ, nắm vững các kiến thức 
cơ bản trong chương trình theo 6 mức độ là nhận biết, thông hiểu, vận dụng, 
phân tích, đánh giá, sáng tạo
 Về mặt kĩ năng, tức là kiểm tra việc sử dụng bản đồ, lược đồ, lập bảng 
thống kê, vẽ biểu đồ, kĩ năng so sánh, phân tích..
 2. Đổi mới nội dung, hình thức kiểm tra miệng
 Kiểm tra miệng giúp giáo viên nhanh chóng nắm bắt được trình độ phát 
triển tư duy của học sinh, là động lực phát huy tính tích cực của học sinh 
trong học tập, thúc đẩy học sinh suy nghĩ độc lập, rèn luyện tư duy ngôn ngữ 
của học sinh.
 Kiểm tra miệng cung cấp những thông tin ngược nhanh nhất, giúp giáo 
viên kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy và đánh giá sơ bộ mức độ nắm kiến 
thức của học sinh, từ đó đưa ra những biện pháp tối ưu, phù hợp với từng đối 
tượng học sinh. 
 Kiểm tra miệng được giáo viên sử dụng trong kiểm tra bài cũ. Giáo 
viên cần thực hiện linh hoạt khâu kiểm tra bài cũ- không nhất thiết phải kiểm 
tra đầu giờ học mà có thể kiểm tra bất cứ thời điểm nào khi lên lớp. Kiểm tra 
bài cũ không chỉ để lấy điểm mà còn trên cơ sở kiểm tra kiến thức cũ để phục 
 3 vụ cho việc lĩnh hội kiến thức mới- điều này đòi hỏi học sinh không chỉ “nhớ” 
mà phải “hiểu” sâu kiến thức.
 Trước đây, hình thức kiểm tra rất đơn giản, đó là giáo viên gọi học sinh 
lên bảng, đặt câu hỏi để học sinh trả lời rồi giáo viên nhận xét cho điểm. Giờ 
đây giáo viên có thể sử dụng thêm các hình thức sau:
 - Giáo viên gọi 1 học sinh lên bảng trả lời câu hỏi và yêu cầu cả lớp 
cùng lắng nghe. Sau đó, gọi 1, 2 em nhận xét, bổ sung phần trả lời của bạn. 
Cuối cùng giáo viên cho điểm cả em trả lời và em nhận xét. Cách làm này sẽ 
lôi cuốn được học sinh cả lớp chú ý lắng nghe và giáo viên có thể kiểm tra 
được nhiều học sinh.
 -Giáo viên còn có thể gọi 1 hoặc 2 học sinh lên bảng để lập bảng so 
sánh, vẽ sơ đồ, lập niên biểu, đồng thời đặt câu hỏi khác cho học sinh dưới 
lớp trả lời.
 Ví dụ: yêu cầu học sinh lên bảng lập bảng so sánh về chủ trương sách 
lược của ta trong giai đoạn 1930-1931 và 1936-1939 theo những nội dung 
sau:
 Nội dung Giai đoạn 1930-1931 Giai đoạn 1936-1939
 Kẻ thù
 Nhiệm vụ
 Mục tiêu
 Hình thức đấu tranh
 Phương pháp đấu tranh
 Trong khi đó giáo viên có thể đặt câu hỏi với học sinh ở dưới lớp: “ tại 
sao ta lại chủ trương tiến hành cuộc vận động dân chủ 1936-1939?”
 -Giáo viên có thể cho 2 học sinh làm việc với nhau, 1 học sinh đặt câu 
hỏi, 1 học sinh trả lời dựa trên những dữ kiện mà giáo viên cung cấp.
 Ví dụ: giáo viên đưa ra các dữ liệu sau trên màn hình máy chiếu:
 4 - 8/1566
 - Cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới
 - Nội chiến cách mạng
 - Chế độ 3 đẳng cấp
 - Chiến tranh giành độc lập
 Học sinh A ở dưới lớp đặt câu hỏi để học sinh B ở trên bảng không 
nhìn vào máy chiếu mà vẫn trả lời đúng các dữ kiện đó. Cụ thể, học sinh A có 
thể đặt câu hỏi: cuộc cách mạng Hà Lan nổ ra năm nào? Ý nghĩa của cách 
mạng Hà Lan đối với thế giới? cách mạng Tư sản Anh diễn ra dưới hình thức 
này?...
 -Giáo viên có thể yêu cầu học sinh vẽ đường trục thời gian biểu diễn 
quá trình diễn biến của sự kiện, tiến trình lịch sử
 Ví dụ: vẽ sơ đồ biểu diễn sự đi lên của cách mạng tư sản Pháp cuối thế 
kỉ XVIII?
 2/6/1793
 Chuyên chính 
 Gia-cô-banh
 10/8/1792
 27/7/1794
 Xóa bỏ chế độ quân 
 chủ, thành lập chế 
 14/7/1789 độ cộng hòa
 Cách mạng bùng nổ, 
 hạnCÁC chế quyền lợi của 
 vua, xóa bỏ đẳng cấp
 - Giáo viên có thể kiểm tra vở bài tập của học sinh hoặc kiểm tra sự 
chuẩn bị bài ở nhà của học sinh ( soạn bài mới, sưu tầm tranh ảnh, vẽ bản đồ, 
tìm hiểu nhân vật, sự kiện)
 Ví dụ: học xong bài 26- lịch sử 8 “Phong trào kháng chiến chống Pháp 
trong những năm cuối thế kỉ XIX” , giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh về 
 5 nhà tìm hiểu về nhân vật Hoàng Hoa Thám và phong trào Yên Thế . Đến tiết 
học sau, giáo viên kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh để cho điểm
 3. Đổi mới kiểm tra viết
 Kiểm tra viết được thực hiện ở đầu hay cuối mỗi tiết học với thời gian 
15 phút hoặc được thực hiện trọn trong một tiết sau khi học xong một 
chương, một phần của chương trình, cuối mỗi kì hay cuối năm.
 Với hình thức kiểm tra này, trong cùng một lúc có thể kiểm tra được 
trình độ của tất cả học sinh trong lớp và có thể kiểm tra được nhiều nội dung. 
Qua bài làm của học sinh, mức độ lĩnh hội kiến thức, khả năng lập luận của 
học sinh được bộc lộ rõ. Trên cơ sở đó, giáo viên có thể đánh giá được trình 
độ chung của cả lớp, trình độ của từng cá nhân, từ đó có kế hoạch cụ thể trong 
thời gian giảng dạy tiếp theo và có hướng giúp đỡ đối với những học sinh cá 
biệt của lớp.
 Đối với kiểm tra 15 phút, giáo viên có thể sử dụng câu hỏi trắc nghiệm 
hoặc tự luận. Đối với kiểm tra 1 tiết, phải có sự kết hợp giữa câu hỏi trắc 
nghiệm với tự luận.
Khi muốn học sinh nhớ mốc thời gian thì nên sử dụng câu hỏi trắc nghiệm.
 Ví dụ: hãy nối mốc thời gian ở cột I tương ứng với các sự kiện ở cộtII:
 Cột I Cột II
 19/8/1945 Giành chính quyền ở Huế
 23/8/1945 Giành chính quyền ở Hà Nội
 25/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh độc tuyên ngôn độc lập
 2/9/1945 Giành chính quyền ở Sài Gòn
 Tuy nhiên, hình thức này sẽ không đánh giá được khả năng sáng tạo, tư 
duy của học sinh, học sinh dễ nhìn bài..Do vậy, trong kiểm tra viết, cần có sự 
kết hợp với câu hỏi tự luận. Đối với câu hỏi tự luận, không nên yêu cầu học 
sinh ghi nhớ máy móc, mà giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi mở.
 6 Ví dụ: đối với học sinh lớp 8, giáo viên đưa câu hỏi: “ Từ hậu quả của 2 
cuộc chiến tranh thế giới, em có suy nghĩ gì?”- học sinh sẽ dựa vào bài học và 
tài liệu để thể hiện suy nghĩ của mình.
 -Hoặc giáo viên cho học sinh giải thích, bình luận 1 câu nói nổi tiếng 
của các nhân vật lịch sử
 Ví dụ: em hiểu thế nào về câu nói của nhà khoa học Nô-ben: “ Tôi hi 
vọng rằng nhân loại sẽ rút ra được từ những phát minh khoa học nhiều điều 
tốt hơn là điều xấu”?
 Đối với loại câu hỏi này, đòi hỏi học sinh phải lập luận, lí giải, chứng 
minh trên cơ sở các sự kiện mà các em đã biết
 -Giáo viên cũng có thể đặt câu hỏi yêu cầu học sinh làm việc với đồ 
dùng trực quan.
 Ví dụ: đối với học sinh lớp 9, giáo viên đưa câu hỏi: hãy điền kiến thức 
phù hợp vào các vòng tròn có đánh số thứ tự dưới đây để thể hiện vị trí tập 
trung binh lực của địch trong chiến cuộc Đông- Xuân 1953-1954 và rút ra 
nhận xét:
 2
 1
 3
 4
 5
 Hoặc giáo viên yêu cầu học sinh điền tên các nhà thám hiểm theo mũi 
tên trên lược đồ để thấy rõ hành trình của các cuộc phát kiến địa lí
 7 Kiểm tra đánh giá bằng câu hỏi tự luận có ưu thế là “đo” được trình độ 
học sinh về lập luận, tức là mức độ hiểu kiến thức, rèn cho các em khả năng 
trình bày. Trắc nghiệm khách quan có ưu thế là chấm nhanh, bảo đảm tính 
khách quan, khảo sát được khá toàn diện nội dung học tập, gây hứng thú cho 
học sinh..Nhưng đối với bộ môn Lịch sử nói riêng, các môn khoa học xã hội 
nói chung, phương pháp kiểm tra đánh giá này lại có hạn chế là không “đo” 
được độ sâu kiến thức của học sinh, chỉ “đo” được kết quả mà không “đo” 
được quá trình dẫn đến kết quả. Do đó, chúng ta cần kết hợp một cách linh 
hoạt, sáng tạo chúng với nhau trong quá trình tiến hành các hình thức kiểm tra 
 4.Quy trình biên soạn đề kiểm tra
 Đề kiểm tra là phương tiện đánh giá kết quả học tập của học sinh sau 
khi học xong một chủ đề, một chương, một số chương hay toàn bộ chương 
trình một lớp. Việc biên soạn đề kiểm tra theo quy trình sau:
 -Xác định mục tiêu và nội dung kiểm tra
 Đánh giá kết quả học tập là sự phân tích, đối chiếu thông tin về trình 
độ, khả năng học tập của học sinh so với mục tiêu dạy học đã được xác định. 
Do đó, cần căn cứ vào mục tiêu cụ thể của từng bài, từng chương để xác định 
mục tiêu và nội dung kiểm tra
 8 -Thiết lập ma trận
 Để kiểm tra được một phạm vi rộng các kiến thức, kĩ năng; vừa kiểm 
tra được các mức độ nhận thức, đồng thời có thể chủ động kết hợp loại câu 
hỏi tự luận với câu hỏi trắc nghiệm khách quan, cần thiết phải lập ma trận hai 
chiều. Đó là một bảng với một chiều thường là nội dung với các lĩnh vực kiến 
thức cần đánh giá và một chiều là các mức độ nhận thức của học sinh. Trong 
mỗi ô là số lượng câu hỏi và hình thức câu hỏi. Nhìn chung, càng nhiều câu 
hỏi ở nhiều lĩnh vực kiến thức khác nhau thì kết quả đánh giá càng có độ tin 
cậy cao hơn. Hình thức câu hỏi đa dạng sẽ gây hứng thú, tập trung sự chú ý, 
tránh nhàm chán đối với học sinh.
 -Thiết kế câu hỏi theo ma trận
 Mức độ khó của câu hỏi được thiết kế căn cứ vào mục tiêu và nội dung 
cần đánh giá. Hình thức câu hỏi (tự luận hay trắc nghiệm) dựa trên ma trận đã 
thiết kế ở trên
 -Xây dựng đáp án và thang điểm
 Đối với hình thức kiểm tra tự luận kết hợp với trắc nghiệm, điểm tối đa 
toàn bài là 10. Sự phân bố điểm cho từng phần được tuân theo nguyên tắc: tỉ 
lệ thuận với thời gian dự định học sinh hoàn thành từng phần, mỗi câu trắc 
nghiệm khách quan nếu trả lời đúng đều có số điểm như nhau. Ví dụ: nếu ma 
trận thiết kế dành 70% thời gian cho tự luận và 30% cho trắc nghiệm khách 
quan thì số điểm tối đa cho câu hỏi tự luận là 7, các câu hỏi trắc nghiệm 
khách quan là 3, mỗi câu trắc nghiệm khách quan trả lời đúng thường được 
0,5 điểm.
 Khi xây dựng câu hỏi cho phần trắc nghiệm khách quan, nhất thiết 
không được sử dụng một loại duy nhất, giáo viên có thể sử dụng ít nhất 2 
trong số các dạng trắc nghiệm khách quan sau:
 -Câu hỏi đúng- sai: loại này chỉ gồm 2 lựa chọn (đúng hoặc sai) và là 
loại trắc nghiệm rất đơn giản, dễ sử dụng. 
 Ví dụ: trong các câu sau, câu nào đúng câu nào sai?
 9 1.cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo 
 2.cương lĩnh chính trị đầu tiên có nhiều hạn chế so với Luận cương 
chính trị 
 -dạng câu hỏi có nhiều lựa chọn: được trình bày dưới dạng một câu hỏi 
gồm 2 phần- phần dẫn và phần lựa chọn. Phần dẫn là một câu hỏi, có thể là 
một câu hỏi chưa hoàn chỉnh. Phần lựa chọn bao gồm các phương án trả lời, 
học sinh phải lựa chọn 1 trong các phương án đó.
 Ví dụ: Hãy khoanh tròn vào chữ cái in hoa trước ý trả lời em cho là 
đúng:
Tứ đại phát minh của Trung Quốc thời phong kiến là:
A.giấy viết, nghề in, đóng thuyền, luyện sắt
B.chữ viết, nghề in, la bàn, thuốc súng
C.giấy viết, gốm sứ, đóng thuyền, thuốc súng
D.giấy viết , nghề in, la bàn, thuốc súng
 -câu hỏi điền khuyết: căn cứ vào các dữ liệu đã cho hoặc dựa vào kiến 
thức đã học mà tìm các từ, các cụm từ điền vào chỗ trống 
 Ví dụ: hãy điền các cụm từ vào chỗ ... cho đúng với ý nghĩa của Cách 
mạng tháng Tám: người dân độc lập tự do, xiềng xích nô lệ, trở thành một 
nước độc lập, một sự kiện vĩ đại
 “cách mạng tháng Tám là trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nó đã 
phá tan hai tầng của thực dân Pháp và phát xít Nhật, đồng thời nó còn lật 
nhào chế độ quân chủ chuyên chế ngót ngàn năm. Nước Việt Nam từ một 
nước thuộc địa đã ..dưới chế độ dân chủ cộng hòa, đưa nhân dân ta từ thân 
phận nô lệ thành làm chủ nước nhà”
 -Dạng câu ghép đôi: được trình bày dưới dạng một bảng thống kê bao 
gồm hai cột: cột thời gian và cột sự kiện- học sinh phải nối thời gian với sự 
kiện cho đúng
 Ví dụ: hãy nối sự kiện với thời gian khởi nghĩa trong cách mạng tháng 
Tám cho đúng:
 10
            File đính kèm:
 sang_kien_kinh_nghiem_doi_moi_kiem_tra_danh_gia_trong_day_ho.doc sang_kien_kinh_nghiem_doi_moi_kiem_tra_danh_gia_trong_day_ho.doc





