Phần lý thuyết dạy học sinh khá giỏi theo chuẩn kiến thức kĩ năng

Một vài định hướng về thực hiện giảng dạy đối tượng học sinh khá giỏi theo chuẩn KTKN ở bộ môn toán:

 Trong dạy học, nội dung dạy học trước tiên cần căn cứ vào nội dung giảm tải. Những nội dung, kiến thức giảm tải thì giáo viên không dạy cho học sinh. Những nội dung thay đổi trong tài liệu giảm tải thì giáo viên thay đổi cho phù hợp. Ngoài việc thực hiện những nội dung giảm tải giáo viên phải thực hiện dạy theo chuẩn kiến thức kĩ năng.

 

doc3 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phần lý thuyết dạy học sinh khá giỏi theo chuẩn kiến thức kĩ năng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN LÝ THUYẾT DẠY HỌC SINH KHÁ GIỎI THEO CHUẨN KIẾN THỨC KĨ NĂNG Một vài định hướng về thực hiện giảng dạy đối tượng học sinh khá giỏi theo chuẩn KTKN ở bộ môn toán: Trong dạy học, nội dung dạy học trước tiên cần căn cứ vào nội dung giảm tải. Những nội dung, kiến thức giảm tải thì giáo viên không dạy cho học sinh. Những nội dung thay đổi trong tài liệu giảm tải thì giáo viên thay đổi cho phù hợp. Ngoài việc thực hiện những nội dung giảm tải giáo viên phải thực hiện dạy theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Dạy theo chuẩn KTKN tức là: Từ chuẩn kiến thức kĩ năng mà bộ đưa ra (hay còn gọi là chuẩn tối thiểu). GV cần xác định mức độ chuẩn cho lớp. Việc xác định chuẩn của lớp GV cần dựa vào: Sách giảm tải, hướng dẫn thực hiện chuẩn KTKN, dựa vào mục đích – yêu cầu trong Sách giáo viên mà Bộ giáo dục và đào tạo phát hành, và tùy theo điều kiện, tình hình của lớp. (Xác định chuẩn của lớp tức là GV xác định lượng kiến thức, kĩ năng cho những đối tượng học sinh có trình độ nhận thức trung bình, dưới trung bình của lớp mình). Làm sao trong khi dạy học sinh trung bình, dưới trung bình của lớp phải đạt được mức chuẩn do giáo viên đưa ra. Khi xác định được chuẩn của lớp rồi thì tất cả học sinh trong lớp bắt buộc phải hoàn thành tất cả kiến thức và kĩ năng đó… Còn những kiến thức kĩ năng còn lại trong sách giáo khoa mà nhằm ngoài chuẩn của lớp thì giáo viên có thể lựa chọn để dạy cho học sinh có khả năng, có điều kiện (học sinh khá – giỏi) thực hiện. Như vậy học sinh có trình độ nhận thức trung bình, dưới trung bình không cần phải làm hết các bài tập trong sách giáo khoa mà chỉ cần làm các bài tập mà giáo viên xác định nằm trong khuôn khổ chuẩn của lớp… Những nội dung ngoài chuẩn có hai loại : Loại bài toán mà học sinh có trình độ nhận thức trung bình, dưới trung bình có thể hiểu và làm được nhưng giảm tải do số lượng nhiều thì giáo viên nên giảng chung cho cả lớp và sau đó chỉ yêu cầu các em khá - giỏi làm thêm. Giáo viên nên tránh các trường hợp dùng từ ngữ không hợp lí, như: “em nào làm nhanh thì làm thêm…”, “các em học sinh khá - giỏi làm thêm cho cô…”. Trong khi HS làm bài giáo viên quan sát theo dõi thấy học sinh nào làm những bài trong chuẩn xong rồi thì mới yêu cầu em đó làm tiếp những bài dành cho học sinh khá-giỏi. VD: em Nam em Bắc làm thêm cho cô bài 4”. Và khi sửa bài và nhận xét giáo viên cần thực hiện cả yêu cầu trong chuẩn và yêu cầu ngoài chuẩn. VD: Cô nhận thấy cả lớp đều làm tốt bài tập 3 phần a, b. Riêng bạn Nam, bạn Bắc đã hoàn thành được cả phần c. Đối với bài toán khó dành cho học sinh khá giỏi (HS có trình độ nhận thức trung bình, dưới trung bình khó nắm bắt được) nằm ngoài chuẩn của lớp giáo viên không nên hướng dẫn chung cho cả lớp mà nên dạy theo nhóm đối tượng tức là dạy theo trình độ học sinh. Cách dạy này thường thực hiện ở phần luyện tập thực hành trong môn toán. Trong cách dạy này giáo viên cần chia lớp theo từng nhóm đối tượng có trình độ như nhau. VD: nhóm HS giỏi toán, nhóm HS yếu toán có lời giải, nhóm HS khá - giỏi, nhóm học sinh trung bình và dưới trung bình, nhóm HS giỏi toán hình… tùy theo bài dạy mà GV có cách chia nhóm khác nhau. Khi dạy GV sẽ giao lượng việc cho các nhóm khác nhau. VD: nhóm học sinh trung bình và dưới trung bình thì thực hiện kiến thức trong chuẩn của lớp, nhóm học sinh khá giỏi thì thực hiện thêm kiến thức ngoài chuẩn. Ví dụ kiến thức ngoài chuẩn là một bài toán có lời giải thuộc dạng khó hiểu… Thì khi phân nhóm theo đối tượng giáo viên cần phải chọn những em có khả năng hiểu và giải được toán có lời giải thành một nhóm và giao cho các em giải thêm bài toán này. Còn những học sinh khác thì vẫn thực hiện các bài trong chuẩn. Trong một lớp học theo thời gian thì các đối tượng học sinh trong lớp sẽ có sự thay đổi. Như sẽ có những em học sinh trung bình học tiến bộ trở thành học sinh khá giỏi. Hoặc những em học sinh khá giỏi vì một lí do nào đó học tập sa sút trở thành học sinh trung bình. Do vậy việc xác định nhóm đối tượng theo trình độ của lớp GV cần chú ý quan sát và thay đổi thường xuyên. Việc phân nhóm đối tượng theo trình độ của HS không phải cố định bất di bất dịch mà luôn thay đổi tùy theo năng lực của học sinh, kiến thức của bài học… Khi giao việc cho học sinh theo trình độ thì GV cần chú ý : Nếu công việc đó học sinh làm việc cá nhân thì giáo viên không nên yêu cầu học sinh đổi chỗ. Việc đổi chỗ để cho các học sinh khá giỏi ngồi thành một nhóm chỉ thực hiện khi công việc mà GV viên giao cho học sinh cần có sự sự hợp tác, có sự bàn bạc, thảo luận chung của cả nhóm. VD: Tìm cách giải của một bài toán tính nhanh, tìm cách giải của một bài toán có lời giải khó hiểu… Khi giao thêm việc (bài tập ngoài chuẩn của lớp) cho nhóm học sinh có khả năng GV cần giao một cách kín đáo, nhẹ nhàng tránh làm ảnh hưởng đến các nhóm khác. GV có thể làm việc riêng đối với từng cá nhân HS, hay với nhóm HS khá giỏi mà không để cho các cá nhân, cũng như nhóm khác biết…. Khi có sự đổi chỗ để hình thành các nhóm theo trình độ GV tránh dùng từ ngữ gây ảnh hưởng đến HS. Như các từ “yếu kém, khá giỏi” và tốt nhất là tránh cho HS biết các em đang được xếp nhóm theo trình độ. Và để làm được điều này GV không nên lúc nào cũng xếp nhóm theo trình độ mà thêm vào những kiểu xếp nhóm khác nhau (có thể ở các tiết học khác): như nhóm theo tên, nhóm theo sở thích, nhóm gần nhà nhau vv… Người thực hiện Nguyễn Hồng Hà

File đính kèm:

  • docDAY HOC SINH KHA GIOI THEO CHUAN KIEN THUC KI NANG.doc
Giáo án liên quan