Nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ở tiểu học

Theo Từ điển Tiếng Việt (Văn Tân chủ biên, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1977), nguyên tắc được hiểu theo các nghĩa sau:

- Kết quả nghiên cứu có tính chất lí thuyết, dẫn đường và qui định giới hạn cho thực hành (ví dụ: nguyên tắc xây dựng chương trình Tiếng Việt Tiểu học).

- Điều thoả thuận lưu truyền hoặc thành văn, dùng làm cơ sở cho các mối quan hệ xã hội, chính trị (ví dụ: nguyên tắc chung sống hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau).

 

doc5 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 24821 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ở tiểu học 1.1. Khái niệm về nguyên tắc: Theo Từ điển Tiếng Việt (Văn Tân chủ biên, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1977), nguyên tắc được hiểu theo các nghĩa sau: - Kết quả nghiên cứu có tính chất lí thuyết, dẫn đường và qui định giới hạn cho thực hành (ví dụ: nguyên tắc xây dựng chương trình Tiếng Việt Tiểu học). - Điều thoả thuận lưu truyền hoặc thành văn, dùng làm cơ sở cho các mối quan hệ xã hội, chính trị (ví dụ: nguyên tắc chung sống hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau). 1.2. Khái niệm nguyên tắc dạy học Tiếng Việt: Là những tiền đề lí thuyết cơ bản xác định nội dung và phương pháp, cách tổ chức các hoạt động dạy và học Tiếng Việt của thầy giáo và học sinh, nhằm đạt mục đích dạy học Tiếng Việt trong nhà trường (theo giáo trình “Phương pháp dạy học Tiếng Việt”, Lê A..., Nhà xuất bản giáo dục, 1997). 1.3. Các nguyên tắc dạy Tiếng Việt ở tiểu học 1.3.1. Nguyên tắc phát triển tư duy Ngôn ngữ và tư duy của con người là hai phạm trù có mối liên hệ mật thiết, có sự tác động và hỗ trợ lẫn nhau. Ngôn ngữ là công cụ để tư duy và tư duy là hiện thực trực tiếp của ngôn ngữ. Ngôn ngữ là tiền đề và là điều kiện để tư duy phát triển và ngược lại. Mối quan hệ này có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình dạy Tiếng Việt cho học sinh Tiểu học. Mục tiêu đầu tiên của việc dạy Tiếng Việt ở tiểu học là góp phần hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt, phát triển tư duy cho học sinh. Điều này được thực hiện thông qua quá trình dạy học Tiếng Việt, quá trình học sinh từng bước chiếm lĩnh Tiếng Việt văn hoá. Nói cách khác, cùng với quá trình dạy học Tiếng Việt, đồng thời ở học sinh cũng hình thành và phát triển các thao tác tư duy, các phẩm chất tư duy. Để phát triển tư duy gắn liền với phát triển ngôn ngữ cho học sinh, trong dạy học Tiếng Việt, người giáo viên cần chú ý các yêu cầu cụ thể: -Trong mọi giờ học đều phải chú ý rèn các thao tác tư duy. Đó là các thao tác phân tích, so sánh, khái quát, tổng hợp... Đồng thời phải chú ý rèn luyện cho các em phẩm chất tư duy nhanh, chính xác và tích cực... -Phải làm cho HS thông hiểu được ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ. -Phải tạo điều kiện cho học sinh nắm được nội dung các vấn đề cần nói và viết trong môi trường giao tiếp cụ thể và biết thể hiện nội dung này bằng các phương tiện ngôn ngữ. 1.3.2. Nguyên tắc giao tiếp ( nguyên tắc phát triển lời nói) Hướng vào hoạt động giao tiếp là nguyên tắc đặc trưng của việc dạy học Tiếng Việt. Để hình thành các kĩ năng và kĩ xảo ngôn ngữ, học sinh phải được hoạt động trong các môi trường giao tiếp cụ thể, đặc biệt là môi trường văn hoá ứng xử. Chỉ có trong các môi trường giao tiếp, môi trường văn hoá ứng xử, học sinh mới hiểu lời nói của người khác, đồng thời vận dụng ngôn ngữ sáng tạo để người khác hiểu được tư tưởng và tình cảm của các em. Bởi lẽ, ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với văn hóa của một dân tộc, nhất là văn hóa ứng xử. Thông qua các bài tập thực hành đơn giản như giới thiệu về bản thân, gia đình, lớp học, bạn bè ... theo mục đích nhất định, học sinh được luyện tập về các kĩ năng ứng xử trong các hoàn cảnh giao tiếp khác nhau. Nguyên tắc này yêu cầu - Việc lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học phải lấy hoạt động giao tiếp làm mục đích, tức là hướng vào hình thành các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho HS. - Xem xét các đơn vị ngôn ngữ trong hoạt động hành chức, tức là đưa chúng vào các đơn vị lớn hơn. Ví dụ xem xét từ hoạt động trong câu như thế nào, câu ở trong đoạn trong bài ra sao. - Phải tổ chức hoạt động nói năng của HS để dạy Tiếng Việt, nghĩa là phải sử dụng giao tiếp như một phương pháp dạy học chủ đạo ở tiểu học. 1.3.3. Nguyên tắc chú ý tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của học sinh Nguyên tắc này yêu cầu : - Dạy Tiếng Việt phải chú ý đặc điểm tâm lí HS, đặc biệt là bước chuyển khó khăn từ hoạt động chủ đạo là hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. - Việc học Tiếng Việt phải dựa trên sự hiểu biết chắc chắn về trình độ tiếng mẹ đẻ vốn có của HS. Khác với học các môn học khác, học Tiếng Việt, học sinh tiếp xúc với một đối tượng quen thuộc gắn bó với cuộc sống hàng ngày của các em. Trước khi vào học ở nhà trường, học sinh đã sử dụng Tiếng Việt với hai loại hoạt động nói và nghe, các em đã có một vốn từ nhất định, làm quen với một số quy luật tạo lập lời nói Tiếng Việt một cách tự phát. Do vậy, yêu cầu thứ nhất khi dạy học Tiếng Việt là phải chú ý đến trình độ vốn có của học sinh từng lớp, từng vùng miền khác nhau để định nội dung, kế hoạch và phương pháp dạy học. Yêu cầu thứ hai là phải phát huy tính chủ động của học sinh trong giờ học Tiếng Việt. Giáo viên cần phải tạo điều kiện để học sinh hình thành lời nói hoàn chỉnh của mình trong các cuộc hội thoại, trong các hình thức học tập khác nhau: cá nhân, nhóm, lớp... 1.3.4. Nguyên tắc kết hợp rèn luyện cả hai hình thức lời nói dạng viết và dạng nói Nói và viết là hai dạng lời nói có quan hệ chặt chẽ trong việc hoàn thiện trình độ sử dụng ngôn ngữ của học sinh. Lời nói dạng nói là cơ sở để hoàn thiện lời nói dạng viết. Lời nói dạng viết là điều kiện để lời nói dạng nói phát triển. Do vậy, dạy học Tiếng Việt ở tiểu học phải chú ý rèn luyện cả hai dạng lời nói trên. 1.3.5. Nguyên tắc tích hợp: Mục tiêu môn Tiếng Việt ở tiểu học có tính chất phức hợp thể hiện ở chỗ môn Tiếng Việt vừa hình thành cho học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói), vừa cung cấp tri thức (gồm tri thức về Tiếng Việt và tri thức về khoa học tự nhiên và xã hội). Cho nên dạy Tiếng Việt ở tiểu học phải bảo đảm nguyên tắc tích hợp. Chương trình dạy Tiếng Việt ở tiểu học có các dạng tích hợp sau: -Tích hợp trong nội bộ môn Tiếng Việt. Đó là sự kết hợp dạy các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói trong từng bài học với dạy các tri thức đơn giản về Tiếng Việt. -Tích hợp nội dung các môn học khác vào môn Tiếng Việt thể hiện ở: Ngữ liệu dùng trong các bài học đã góp phần cung cấp các tri thức về tự nhiên và xã hội cho học sinh. Đồng thời, bài học của các môn học khác cũng có ngữ liệu để dạy Tiếng Việt và được coi là những tình huống để rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Thông qua các bài học, thông qua việc thảo luận trong nhóm, trong lớp về nội dung những bài học ấy, học sinh được mở rộng vốn từ, học được cách diễn đạt bằng Tiếng Việt và các quy tắc sử dụng Tiếng Việt theo các phong cách chức năng khác nhau. Học sinh có nhiều cơ hội để ứng xử bằng Tiếng Việt thích hợp với các ngữ cảnh khác nhau. 1.3.6. Nguyên tắc kết hợp dạy Tiếng Việt với dạy văn hoá và văn học Về bản chất, kết hợp dạy Tiếng Việt với dạy văn hoá và văn học là một phương hướng tích hợp trong dạy Tiếng Việt ở tiểu học. Vận dụng nguyên tắc này, việc dạy Tiếng Việt ở tiểu học được định hướng như sau: -Ngoài những ngữ liệu khác, ngữ liệu để dạy Tiếng Việt (các văn bản dạy Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Luyện từ và câu...) được lựa chọn từ những tác phẩm văn học. Trong số các bài có ngữ liệu là văn bản văn học, tỉ lệ bài thuộc thể loại văn xuôi cao hơn các thể loại khác. Đó là các bài có nội dung văn học, văn hoá Việt Nam và thế giới. -Trong quá trình dạy Tiếng Việt cần từng bước cho học sinh nhận biết cái chân, cái thiện, cái mĩ của văn học thông qua việc nhận biết giá trị thẩm mĩ của các yếu tố ngôn ngữ trong bài văn. Những nhận biết và cảm xúc đó sẽ là cơ sở ban đầu của việc học văn ở bậc trung học sau này của học sinh. -Nhờ dạy Tiếng Việt tích hợp với dạy văn, học sinh được làm quen với một số thuật ngữ (như tác phẩm, tác giả, nhân vật; thể loại tục ngữ, câu đố, ca dao, thơ, truyện...), được rèn luyện các kĩ năng cơ bản (như kể chuyện, tóm tắt chuyện, tìm đại ý, bố cục, nhận xét về nhân vật, về tác giả, tác phẩm, nêu cảm nghĩ, liên tưởng, phát hiện các biện pháp tu từ, phát hiện các chi tiết nghệ thuật...). 1.3.7. Nguyên tắc hướng tới những phương pháp và hình thức dạy học tích cực Nguyên tắc này thể hiện: -Kế thừa và phát huy những phương pháp và hình thức dạy học phát huy tính tích cực của người học đã được vận dụng trong dạy học Tiếng Việt từ lâu nay. -Đưa vào những yếu tố mới (những phương pháp, kĩ thuật dạy học mới) để giúp người học phát huy được tính tích cực trong học tập. -Tiếp thu và vận dụng một số phương pháp và hình thức dạy học tích cực đã đạt được nhiều thành tựu ở nước ngoài phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Theo nguyên tắc này, việc dạy học Tiếng Việt phải thể hiện tinh thần chung là hướng vào việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh. Hoạt động học tập Tiếng Việt của học sinh được hiểu là hoạt động giao tiếp, hoạt động trí tuệ được thể hiện ra bên ngoài bằng các hành động cụ thể có thể quan sát được, lượng hoá được (ví dụ, hoạt động tìm tòi phát hiện kiến thức, thảo luận, tranh luận, trò chơi học tập...). -Về hoạt động của học sinh trong giờ học theo phương pháp mới: + Hoạt động giao tiếp ( đặc thù của môn Tiếng Việt). + Hoạt động phân tích, tổng hợp, thực hành lí thuyết ... (như các môn học khác). Các hình thức tổ chức dạy học: Học sinh làm việc độc lập, theo nhóm, theo lớp. -Về hoạt động của giáo viên trong giờ học theo phương pháp mới: + Giao việc cho học sinh : Cho học sinh trình bày yêu cầu của câu hỏi. Cho học sinh làm mẫu một phần bài tập. Cho học sinh tóm tắt nhiệm vụ học tập, dặn dò học sinh thực hiện bài tập. + Kiểm tra học sinh: Xem học sinh có làm việc không. Xem học sinh có hiểu công việc phải làm không. Trả lời thắc mắc của học sinh . + Tổ chức báo cáo kết quả làm việc của học sinh: báo cáo với giáo viên, trong nhóm, trước lớp (bằng miệng, bảng con, phiếu học tập, bằng giấy...) + Tổ chức cho học sinh đánh giá kết quả học tập của mình và của bạn. Hình thức đánh giá có thể là: cá nhân, trong nhóm, trước lớp (giáo viên khen, chê, cho điểm...).

File đính kèm:

  • docCac nguyen tac DH Tieng viet Tieu hoc.doc
Giáo án liên quan