Một số chỉ tiêu xác định mức độ phát triển kinh tế - xã hội

● Tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Đây là tiêu thức thường được nêu ra đầu tiên, để so sánh, đánh giá qui mô, mức độ phát triển kinh tế và mức sống giữa các nước. GNP là tổng giá trị toàn bộ các sản phẩm cuối cùng và các hoạt động dịch vụ được tạo ra hàng năm của mỗi nước; GNP không kể các sản phẩm trung gian và các phần giá trị phải chi trả cho người nước ngoài, nhưng lại bao gồm cả phần giá trị được tạo ra ở nước ngoài mà thuộc quyền sở hữu của người trong nước.

 ● Tổng sản phẩm trong nước (GDP). Là tiêu thức so sánh cũng thường được dùng với GNP (hoặc thay thế GNP). GDP khác GNP ở chỗ GDP không bao gồm phần giá trị của người trong nước được tạo ra ở nước ngoài, nhưng lại bao gồm cả những phần giá trị của người nước ngoài được tạo ra trong lãnh thổ quốc gia. GNP nhấn mạnh khía cạnh chủ sở hữu của các giá trị được tạo ra, bất kể được tạo ra ở nơi nào. Còn GDP nhấn mạnh khía cạnh không gian lãnh thổ của các giá trị được tạo ra, bất kể nó thuộc về ai, về quốc gia nào. Như vậy, trong cùng một niên hạn thống kê, cùng một biểu tính và chuyển đổi thì các chỉ số GNP và GDP chỉ bằng nhau trong 3 trường hợp sau:

 

doc9 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 5835 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số chỉ tiêu xác định mức độ phát triển kinh tế - xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục đích của khối là khuyến khích hợp tác, trao đổi kinh tế, thương mại trong khu vực và giữa MERCOSUR với các khu vực khác (trước hết là với khu vực châu Á-TBD, trong đó có ASEAN). Nhờ việc xoá bỏ hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên, hàng hoá trao đổi không bị đánh thuế (xuất-nhập khẩu), nên buôn bán của MERCOSUR tăng đáng kể, đạt gần 1,5 tỉ USD. MERCOSUR chủ trương khuyến khích các nhà đầu tư trên thế giới vào làm ăn tại đây, nhằm tạo ra một thị trường mở cửa để hàng hoá-dịch vụ-lao đông-vốn được tự do lưu thông. Gần đây, Bôlivia, Pêru, và Chilê đã tiến hành thương lượng và xin nhập vào nhóm này, Vênêxuêla cũng có kế hoạch thiết lập khu vực buôn bán tự do với MERCOSUR. Ngoài ra, hiện nay trên thế giới cũng đã và đang hình thành một số tổ chức khác, nhưng chưa có vị trí lớn và ít có quan hệ với Việt Nam. Như vậy, có thể nói toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế là những quá trình khách quan, chúng tạo ra những cơ hội lớn chưa từng có trong lịch sử, nhưng đồng thời cũng là những thách thức lớn đối với sự phát triển của từng quốc gia, từng khu vực. Việc lựa chọn chiến lược phát triển quốc gia trong những điều kiện mới, nhất thiết phải tính đến quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá KTế. 3. Vị trí của Việt Nam trong phân công lao động quốc tế và khu vực 3.1. Những lợi thế của Việt Nam. ● Về vị trí địa lý (VTĐL). VTĐL ở đây không chỉ giới hạn trong toạ độ địa lý đơn thuần, mà bản chất kinh tế của VTĐL là “địa tô chênh lệch”. VTĐL càng thuận lợi thì cho phép thu được địa tô chênh lệch cao, (và ngược lại) VTĐL không thuận lợi chỉ đem lại “địa tô chênh lệch” thấp, thậm chí không có “địa tô chênh lệch”, như vậy VTĐL thuận lợi chính là “lợi thế so sánh”. Nước ta, VTĐL thuận lợi được thể hiện ở các mặt sau: - Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á; Ở ngã tư nơi gặp gỡ của các luồng gió xuất phát từ các trung tâm lớn bao quan. Vì vậy, tự nhiên của nước ta rất đa dạng và phong phú. Đặc điểm này có tác động sâu sắc đến qui mô, cơ cấu và hướng phát triển kinh tế, xã hội. - Nằm ở rìa đông bán đảo Đông Dương; gần trung tâm Đông Nam Á. Nước ta trở thành một đầu mối giao thông quan trọng từ TBD-ÂĐD và châu Úc-Đại Dương (hoặc ngược lại). Vùng biển chủ quyền nước ta rộng lớn giàu tiềm năng. Vị trí này cho phép Việt Nam có thể dễ dàng phát triển các mối quan hệ kinh tế - thương mại; văn hoá, KH - KT với các nước trong khu vực và TG. - Nằm trong khu vực đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động nhất trên thế giới trong thế kỷ XXI này; trong đó “Bốn con rồng” của châu Á (Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Công, Singapo) cùng với Thái Lan, Malaixia cũng đang phát triển mạnh trên con đường đó; các nước khác cũng đang có những bước phát triển đáng kể. Như vậy, ASEAN đang chiếm vị trí cao hơn trong khu vực C.Á-THD và trên thế giới. - Việt Nam là nơi xuất hiện loài người sớm cùng với nền văn minh đi theo nó; Có mối quan hệ lâu đời với các quốc gia có nền văn minh sớm như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia. Mặt khác, Việt Nam còn nằm ở ngã ba của các tuyến đường bộ, đường hàng không và đường hàng hải quốc tế. Vì vậy, Việt Nam cũng sớm có mối quan hệ với các nước phương Tây. ● Tài nguyên thiên nhiên. Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, trong đó có nhiều loại có giá trị kinh tế lớn (than, sắt, đầu mỏ, bôxit, aptit ...). Tuy nhiên, một số tài nguyên vẫn chưa được đưa vào khai thác (hoặc khai thác ở mức độ thấp), việc sử dụng cũng chưa thật hợp lý. Đây chính là những nguồn lực bên trong để phát triển kinh tế, đồng thời còn là đối tượng đầu tư với các nước trên thế giới. ● Tài nguyên nhân văn. Tài nguyên này rất phong phú (bao gồm con người cùng với hệ thống giá trị do con người tạo ra trong quá trình phát triển lịch sử dân tộc), đây cũng là đối tượng đầu tư phát triển rất quan trọng của các nước tư bản. Tuy nhiên, nguồn tài quí giá nguyên này cũng chưa được động viên, khai thác đầy đủ để phát triển KT-XH. Việt Nam là một nước đông dân, một thị trường tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ rộng lớn, đây cũng là tiền đề và là yếu tố kích thích thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. ● Về đường lối, chính sách. Việt Nam tiến hành đổi mới toàn bộ nền KT-XH, công cuộc đổi mới được thực hiện từ Đại hội Đảng VI (1986), đánh dấu một bước ngoặt lớn đối với đời sống kinh tế - chính trị của đất nước. Đại hội VII (1991), tiếp tục phát triển và cụ thể hoá về đường lối mà đại hội VI đề ra. Thông qua “Cương lĩnh chính trị XD đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và chiến lược ổn định và phát triển KT-XH đến năm 2000”. Đại hội VIII (1996) đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH’, HĐH’. Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có CSVC-KT hiện đại; Có cơ cấu kinh tế hợp lý; Quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao; An ninh-quốc phòng vững chắc; Dân giàu-nước mạnh-xã hội công bằng-văn minh. Đại hội IX & X (2001, 2006) lại đánh dấu một bước ngoặt mới khi đất nước bước sang Thiên niên kỷ mới (thế kỷ XXI). Khởi đầu của Thiên niên kỷ này là những thành công trong công cuộc đổi mới nền KT-XH trước đó đã đạt được. Điều này càng khẳng định con đường đổi mới là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế đất nước, tiếp cận được với những tiến bộ của cách mạng KH-KT-CN hiện đại trên thế giới. Những kết quả đã đạt được từ sau đổi mới: Tốc độ tăng trưởng trung bình của nền kinh tế trong cơ cấu GDP > 7,5%; Cả công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ phát triển ổn định và tương đối toàn diện; Một số sản phẩm công nghiệp quan trọng (điện, than, dầu khí, vật liệu xây dựng ...) tăng nhiều so với trước; Nhập siêu giảm. Giá cả ổn định; Lạm phát về cơ bản đã được đẩy lùi, có tích luỹ nội bộ; Vấn đề lao động việc làm cơ bản đã khắc phục được; GD-YT-VH và các chính sách xã hội có bước phát triển mới; An ninh-chính trị ổn định; Quan hệ đối ngoại mở rộng, đầu tư của nước ngoài tăng mạnh, vị trí của nước ta được nâng cao hơn trên trường quốc tế. ● Vị trí của Việt Nam trong tổng thể kinh tế thế giới được xếp như sau: Theo báo cáo của UNDP phân các nước thành 3 nhóm theo chỉ tiêu GNP/người (1992, có 173 nước thống kê): Nhóm thu nhập cao ( 6.000USD -38 nước). Nhóm có thu nhập trung bình (từ 651 USD-6.000USD -82 nước). Nhóm có thu nhập thấp (651USD -53 nước). Việt Nam đứng thứ 150/173 nước. Theo trình độ phát triển CN: các nước CN phát triển (46 nước); đang phát triển, trong đó có một số nước chậm phát triển (LDC) là 127 nước. Việt Nam thuộc nhóm TB (không thuộc LDC). Về chỉ số HDI: Nhóm cao (0,8-1,0) có 53 nước; nhóm TB (0,5-0,79) có 65 nước và nhóm thấp (<0,5) có 55 nước. Việt Nam có chỉ số HDI là 0,514 (1992), xếp 116/173 (thuộc nhóm TB) ● Vị trí của Việt Nam trong khu vực ĐNÁ: Việt Nam đứng thứ 3 về dân số (1992) và đứng thứ 4 về diện tích lãnh thổ. GNP đứng thứ 6, GDP đứng thứ 5, bình quân GDP/ng và GDP/người còn thấp (thứ 8 và 9). Qui mô xuất khẩu chỉ chiếm 2% tổng giá trị xuất khẩu trong khu vực. 3.2. Một số hạn chế (hay thách thức) Do nhiều nguyên nhân cả (về chủ quan và khách quan), cho nên sự phát triển KT-XH của nước ta còn chưa vững chắc; hiệu quả và sức cạnh tranh chưa cao; còn nhiều yếu tố chưa đảm bảo tăng trưởng và phát triển bền vững. Cụ thể: Trong sản xuất, xây dựng và tiêu dùng còn lãng phí lớn; Tích luỹ nội bộ còn thấp; Tốc độ thu hút đầu tư nước ngoài chậm lại (điều này còn có nguyên nhân khách quan của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ ở Đông Nam Á -1997); Phương hướng và cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, còn dàn trải, thất thoát lớn; Công nghiệp (nhất là CNCB’) chưa phát triển; NSLĐ thấp, giá thành cao, công nghệ còn lạc hậu; Cơ cấu kinh tế còn chậm thay đổi; Nhập siêu và bội chi ngân sách còn lớn, nợ nước ngoài cao, dự trữ quốc gia còn mỏng; Việc xây dựng và củng cố quan hệ quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN bị buông lỏng; Điều hành nền kinh tế thị trường vẫn còn lúng túng; Công bằng trong xã hội còn nhiều bất hợp lý (đất nước thì nghèo - tiêu dùng quá khả năng làm ra); Chưa ngăn chặn kịp thời những thủ đoạn làm ăn bất chính (tệ tham nhũng, quan liêu, sử dụng ngân sách, công quĩ chung còn phổ biến và nghiêm trọng, dân chủ trong xã hội còn hạn chế); Sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng và các tầng lớp dân cư có xu hướng ngày càng mở rộng; Việc làm và những vấn đề xã hội còn gay gắt... Tất cả những vấn đề trên ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh tế, làm giảm nhịp độ tăng trưởng; đồng thời chứa đựng những tiềm ẩn gây nguy cơ mất ổn định KT-XH. 3.3. Một số quan điểm và giải pháp. a. Quan điểm chung. Muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, hội nhập nhanh chóng vào khu vực và thế giới. Trong những năm tiếp theo cần: Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối đa các nguồn nội lực; Nâng cao hiệu quả về hợp tác quốc tế; Cần kiệm và đẩy nhanh quá trình CNH' và HĐH'; Nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; Kết hợp chặt chẽ với phát triển VH - YT - GD, thực hiện xã hội công bằng văn minh; Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất song song với hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với định hướng XHCN; Nâng cao ý thức tự lực, tự cường, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế; Bảo đảm an ninh - quốc phòng vững chắc; Kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới KT - XH với cải tiến bộ máy quản lý hành chính nhà nước; Xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới. b. Giải pháp: Thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chính việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng CNH', HĐH' và hợp tác hoá, dân chủ hoá. Đẩy mạnh đổi mới, phát triển và quản lý có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống tài chính - tiền tệ, thực hiện tiết kiệm. Tích cực giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân về KT-XH. (Theo ĐỊA LÝ KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM- Nguyễn Duy Hòa)

File đính kèm:

  • docMot so chi tieu xac dinh muc do phat trien KTXH.doc
Giáo án liên quan