Theo đánh giá của Liên hiệp quốc, Việt Nam là một trong 5 nước trên thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Trong vòng 100 năm nữa, nếu thế giới không tích cực có giải pháp hạn chế hiệu ứng nhà kính và nhiệt độ trái đất nóng thêm 20C thì chắc chắn ở Việt Nam nước biển sẽ dâng lên chừng 1m. Trong trường hợp này, 3/4 đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long sẽ bị ngập, sản lượng lương thực của chúng ta bị mất ít nhất 10% và khoảng 10% dân số Việt Nam sẽ mất công ăn việc làm. Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.000 km, 28 tỉnh thành phố giáp biển, mỗi năm xuất khẩu chừng 5 triệu tấn gạo, vài triệu tấn hải sản, hạt điều, cà phê. nuôi một phần nhân loại. Nếu nước biển dâng, chúng ta phải cắt phần xuất khẩu này. Ngoài ra hiện tượng này sẽ khiến 1,2 triệu ha đất bị nhiễm mặn và khoảng 0,23 triệu ha rừng ngập mặn bị xóa sổ, . Nhưng có nghịch lý là biến đổi khí hậu cũng sẽ gây hạn hán, nhiều vùng của nước ta, trước hết là ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, sẽ bị sa mạc hóa, không trồng trọt được. Biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ tiếp tục đe doạ môi trường sống của người dân Việt Nam. Đó là điều mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, những người lao động, người làm chủ vận mệnh đất nước trong tương lai cần phải biết và chuẩn bị ứng phó với hoàn cảnh đó.
7 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1489 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo dục phổ thông góp phần nâng cao nhận thức và năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trực tiếp tới người học, lôi cuốn người học cùng tham gia ngay trong quá trình học tập cũng như tham gia các hoạt động thực hành tìm hiểu về biến đổi khí hậu. Vỡ vậy trong giáo dục về biến đổi khí hậu, cần chú ý việc vận dụng các PPDH tích cực, hướng người học vào các hoạt động gắn với thực tiễn, với những yêu cầu như sau:
+ Giảm giảng giải, thuyết trình, tăng cường thảo luận, tranh luận.
+ Giảm ghi nhớ máy móc, tăng việc học ngoài hiện trường mang tính khảo sát nghiên cứu
+ Giảm trả lời theo sách, tăng độc lập tư duy, giải quyết vấn đề.
+ Vận dụng sáng tạo các hiểu biết, tránh tiếp nhận xuôi chiều theo những kiến thức có sẵn.
+ Tránh vụn vặt, cần xem xét thông tin một cách hệ thống.
+ Chú ý kinh nghiệm thực tế, khả năng vận dụng.
+ Tăng làm việc tập thể.
+ Chú ý dạy học theo kiểu dự án, nghiên cứu đề tài, khai thác các tình huống của thực tiễn.
Tuy nhiên cần quan tâm tới đối tượng học sinh để lựa chọn các PPDH cho phù hợp, trước hết do đặc điểm tâm sinh lý nhận thức của các em khác xa nhau, tiếp đó do mục tiêu, nội dung chương trình giáo dục của từng cấp học rất khác biệt.
Trong giáo dục về biến đổi khí hậu, ngoài các phương pháp chung như: giảng giải/giải thích - minh hoạ, phương pháp thảo luận, phương pháp trò chơi... nên chú ý sử dụng một số phương pháp như :
Phương pháp tham quan, điều tra khảo sát thực địa: giúp học sinh kiểm nghiệm các kiến thức về tác động của biến đổi khí hậu đã học trên lớp, đồng thời mở rộng tầm hiểu biết thực tế, phát triển kĩ năng quan sát, phân tích hiện tượng thiên nhiên và rèn luyện kỹ năng ứng phó với những thiên tai do biến đổi khí hậu gây nên.
Phương pháp khai thác kinh nghiệm thực tế để giáo dục: Khai thác những hiểu biết, kinh nghiệm của học sinh về những hiện tượng liên quan đến biến đổi khí hậu tác động đến địa phương, giúp học sinh hiểu vấn đề xung quanh môi trường sống của các em và tạo cho các em thói quen chủ động trong việc tìm cách tự ứng phó với những tác động xấu của biến đổi khí hậu.
Phương pháp hoạt động thực tiễn: Hoạt động thực tiễn giúp HS ý thức được giá trị của lao động, rèn luyện kĩ năng, thói quen ứng phó với những tác động xấu của biến đổi khí hậu cũng như rèn khả năng tham gia vào các hoạt động ứng phó với diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu ở điạ phương.
Phương pháp giải quyết vấn đề cộng đồng:
Mỗi cộng đồng địa phương có thể chịu những tác động khác nhau của biến đổi khí hậu. Ví dụ địa phương ở vùng biển thấp bị ngập lụt đe doạ; vùng ven sông ở đồng bằng bị xói lở, lụt; vùng đồi núi thường có lũ, sạt lở đất,... GV cần khai thác tình hình thực tiễn ở địa phương để giáo dục HS, đảm bảo tính thiết thực và hiệu quả. Phương pháp này đòi hỏi GV phải thu thập số liệu, sự kiện và tìm hiểu tình hình địa phương, tổ chức các hoạt động để các em biết, hiểu thực tiễn và học cách ứng phó phù hợp.
Phương pháp tiếp cận kĩ năng sống
Kĩ năng sống ứng phó với những tác động của biến đổi khí hậu là khả năng ứng xử một cách chủ động tích cực đối với các thiên tai do biến đổi khí hậu gây nên.
Một số kĩ năng quan trọng cần phát triển trong lĩnh vực này, bao gồm:
+ Kĩ năng nhận biết và phát hiện tác động của biến đổi khí hậu tới cuộc sống, sản xuất của con người;
+ Kĩ năng thực hiện các hoạt động ứng phó với thiên tai do biến đổi khí hậu gây ra (lập kế hoạch hành động, ra quyết định hành động và kiên định thực hiện kế hoạch hành động ứng phó với thiên tai do biến đổi khí hậu gây ra).
Trong quá trình giáo dục cần chú ý rèn luyện kĩ năng ứng phó với thiên tai thông qua việc luyện tập xử lí các tình huống cụ thể.
a. Cơ hội
CT, SGK mới được triển khai từ năm học 2002- 2003 đến nay đã quán triệt quan điểm gắn với yêu cầu thực tiễn, đã và đang thực hiện nội dung giáo dục bảo vệ môi trường nên đã có những tiền đề để khai thác, phục vụ việc giáo dục về biến đổi khí hậu. Ví dụ trong SGK Lịch sử- Địa lí lớp 5 đề cập đến khí hậu Việt Nam thường hay có bão, có năm mưa lớn gây lũ lụt, có năm lại xảy ra hạn hán…; SGK Địa lí lớp 9 nêu “bão, gió Tây khô nóng, sự phát triển của sâu bệnh trong điều kiện khí hậu nóng ẩm và các thiên tai khác như sương muối, rét hại,… gây tổn thất không nhỏ cho nông nghiệp”; SGK lớp 11 “Lượng CO2 tăng đáng kể trong khí quyển gây ra hiệu ứng nhà kính, làm cho nhiệt độ Trái Đất tăng lên…. ”; SGK Địa lí lớp 12 có riêng 1 bài đề cập đến “Một số thiên tai chủ yếu và biện pháp phòng chống”, trong đó trình bày về bão, ngập lụt, lũ quét và hạn hán ở Việt Nam. Môn Vật lý ở lớp 8, 9 đề cập đến việc sử dụng năng lượng nhiệt khi đốt cháy các nhiên liệu sẽ thải ra khí độc, gây ô nhiễm môi trường và hiệu ứng nhà kính; lớp 10 cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tác hại và nguyên nhân của việc tăng khí nhà kính CO2 của khí quyển. Môn Hoá học ở lớp 10 giúp học sinh hiểu được một số vấn đề nhiên liệu, chất đốt, năng lượng hoá học, sự ôxi hoá cháy và gây ô nhiễm môi trường không khí,.... Môn Sinh học ở lớp 10 đề cập đến quá trình quang hợp của thực vật làm cho hàm lượng khí ôxi và khí cácbônic của khí quyển Trái Đất được duy trì ổn định, đảm bảo cuộc sống của sinh vật. Đó là những nội dung liên quan đến hiện tượng hiệu ứng nhà kính, việc gia tăng nhiệt độ của khí quyển và hậu quả của chúng, tạo điều kiện cho việc tích hợp giáo dục về biến đổi khí hậu.
Việc tổ chức bồi dưỡng về giáo dục bảo vệ môi trường cho giáo viên cốt cán ở cấp độ trung ương và các giáo viên đứng lớp ở cấp độ địa phương trong giai đoạn hiện nay đảm bảo những yêu cầu về giáo dục bảo vệ môi trường đã và sẽ được phổ biến tới giáo viên các cấp học ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước. Các giáo viên được bồi dưỡng những kiến thức liên quan đến môi trường, bảo vệ môi trường và kỹ năng dạy học tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường qua các môn học và hoạt động giáo dục. Công tác giáo dục bảo vệ môi trường trong nhà trường phổ thông vẫn đang tiếp tục được quan tâm chú ý. Bộ GDĐT tiếp tục đầu tư cho việc biên soạn các tài liệu bồi dưỡng giáo viên, tài liệu tham khảo về bảo vệ môi trường cho học sinh, tài liệu tập huấn về giáo dục bảo vệ môi trường cho các giảng viên sư phạm,…. Đó là điều kiện thuận lợi để đặt vấn đề về tăng cường giáo dục về biến đổi khí hậu. Một nội dung gắn bó mật thiết với giáo dục bảo vệ môi trường.
b. Thách th ức
Tuy nhiên với việc triển khai các tài liệu bồi dưỡng tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường qua các môn học cụ thể cùng với cách tổ chức tập huấn theo các khoá học tập trung trong thời gian qua, kết quả của hoạt động bồi dưỡng chủ yếu vẫn tập trung vào việc nâng cao năng lực nhận thức của học sinh là chính. Việc hình thành kỹ năng tham gia bảo vệ môi trường, tăng cường thái độ thân thiện với môi trường chưa đạt được như mong muốn vì chưa có nhiều hoạt động tác động tới hành vi và thái độ của học sinh đối với môi trường. Vì vậy hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường cần phải được đa dạng hoá hơn nữa để đạt được mục tiêu cả về kiến thức, thái độ lẫn kỹ năng và hành vi bảo vệ môi trường. Đó cũng là kinh nghiệm cần chú ý khi triển khai giáo dục về biến đổi khí hậu.
4. Vấn đề và kiến nghị
Cho đến nay, chưa có một yêu cầu riêng, chính thức đối với việc đưa giáo dục về biến đổi khí hậu trong nhà trường phổ thông Việt Nam. Vì vậy những vấn đề cấp bách như hậu quả của tác động biến đổi khí hậu tới cuộc sống, tới sự sinh tồn của người dân Việt Nam, tới sự phát triển nền kinh tế đất nước; những kịch bản dự kiến khi nhiệt độ tăng 1°C, 2°C,... nước biển sẽ dâng cao làm ngập chìm bao nhiêu diện tích đất trồng, bao nhiêu dân cư sẽ mất nơi cư trú,... chưa được phân tích kỹ và lựa chọn cẩn thận như những nội dung cấp thiết nhất để đưa vào trong chương trình giáo dục của nhà trường phổ thông. Mặt khác do cách thức tổ chức chương trình giáo dục của Việt Nam với những quy định chặt chẽ về chuẩn kiến thức và kỹ năng nên khó có thể đan xen thêm những kiến thức, kỹ năng gắn với cuộc sống thường nhật. Đó là vấn đề cần quan tâm khi quyết định giao nhiệm vụ giáo dục về biến đổi khí hậu cho ngành giáo dục.
Các hoạt động yêu cầu tích hợp các nội dung giáo dục gắn bó mật thiết với nhu cầu thường nhật của cuộc sống, hình thành nên kỹ năng, thói quen ứng xử phù hợp với môi trường tự nhiên và xã hội, với chính bản thân học sinh liên tục được đặt ra. Tuy nhiên cách thức tiến hành trong nhà trường vẫn thiên về giáo dục nhận thức. Việc tác động tới hành vi, thói quen của người học chưa nhiều nên hiệu quả giáo dục chưa cao. Thay đổi cách thức tập huấn bồi dưỡng giáo viên, thay đổi cách thức tổ chức dạy học để học sinh có được hành vi thói quen phù hợp cũng là một thách thức lớn đối với giáo dục phổ thông Việt Nam.
Hiện nay cán bộ quản lý và giáo viên các trường phổ thông ở tất cả các cấp học đều băn khoăn với những yêu cầu ngày càng nhiều đối với nhà trường về tích hợp các nội dung giáo dục khác nhau như bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn năng lượng, phòng chống AIDS/ HIV và ma tuý trong học đường, an toàn giao thông, dân số và sức khoẻ sinh sản vị thành niên, phòng chống cúm A.... trong khi chương trình giáo dục của các môn học đã được xác định với đầy ắp các kiến thức và kỹ năng chuyên môn, với thời lượng dạy học hạn chế. Đó là một khó khăn không dễ gì khắc phục của giáo dục phổ thông Việt Nam.
Chưa có tài liệu, chưa có nhiều kinh nghiệm trong thực hiện giáo dục về biến đổi khí hậu cũng là những khó khăn không thể bỏ qua.
Những vấn đề nêu trên cho thấy chúng ta cần và rất mong sự chia xẻ kinh nghiệm của các đồng nghiệp quốc tế dự hội thảo.
Về phía Việt Nam, rất mong Bộ GD ĐT sớm có được đề án đưa giáo dục về biến đổi khí hậu vào nhà trường, trước hết cho nhà trường phổ thông, giúp cho học sinh trên mọi miền đất nước sớm có được những hiểu biết về biến đổi khí hậu, về tác động của chúng đến đời sống người dân, tới cuộc sống của nhân loại và những kỹ năng ứng phó với những hiểm hoạ do biến đổi khí hậu đưa lại.
Tài liệu tham khảo
[1]. Chương trình, sách giáo khoa môn Địa lí, Vật lí, Hoá học, Sinh học cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông. NXB GD
[2]. Lê Văn Khoa- Chủ biên- Môi trường và giáo dục bảo vệ môi trường- NXB GD 2009
File đính kèm:
- Giao duc pho thong gop phan nang cao nhan thuc va nangluc ung pho voi bien doi khi hau.doc