Giáo án Sinh học Lớp 6 - Chương 2: Mô thực vật

I. Khái niệm về mô thực vật

1. Đinh nghĩa

Có nhiều cách đinh nghĩa về mô, cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa về mô thật hoàn hảo, đúng trong mọi trường hợp.

Một cách khái quát chúng ta có thể định nghĩa: Mô là một nhóm tế bào đã chuyên hóa để đảm đương một hay nhiều chức năng sinh lý nhất định, có cấu tạo giống nhau và có cùng nguồn gốc.

Như vậy, mô đặc trưng về hình thái và cấu tạo do đó có tính di truyền và được dùng trong phân loại.

Ðịnh nghĩa về Mô vẫn còn tính tương đối vì trong thực tế cấu trúc cơ thể thực vật đa dạng và phức tạp, còn nhiều hướng thay đổi thích nghi.

Một trong những khuynh hướng cơ bản của tiến hóa thực vật là sự phân hóa tế bào của cơ thể và sự phân công chức năng giữa chúng, cho phép tế bào hoạt động hiệu quả hơn, làm tăng tính phụ thuộc của phần này vào phần kia của cơ thể. Sự tổn thương của một phần có thể làm chết cả cơ thể. Ở thực vật sự chuyên hóa để bù lại những khía cạnh thiếu sót đó. Các tế bào trong cơ thể chuyên hóa ở mức độ khác nhau. Có những tế bào chuyên hóa cao mất nhân hay không còn thể nguyên sinh sống, và dẫn đến chuyển hóa thuận nghịch. Cũng có những tế bào chuyên hóa ít, còn giữ lại thể nguyên sinh sống, có khả năng biến đổi hình dạng, cấu tạo và có khả năng chuyển hóa thuận nghịch. Giữa hai thái cực này là những tế bào với mức độ hoạt động trao đổi chất khác nhau và mức độ chuyên hóa cấu trúc chức năng khác nhau.

Không có một tiêu chuẩn nào, như cấu trúc, nguồn gốc hoặc chức năng để có thể thường xuyên áp dụng cho định nghĩa về mô. Có thể nói một cách khái quát, khoa học về sự cấu tạo và bố trí tương hổ của các mô gọi là mô học. Mô có thể không hòan tòan là tế bào sống.

2. Quá trình xuất hiện mô

Qúa trình xuất hiện Mô là quá trình tiến hóa của thực vật ở môi trường nước lên môi trường cạn.

- Ở đơn bào và đa bào bậc thấp chưa có sự xuất hiện Mô.

- Ở đa bào bậc cao như Tảo nâu cơ thể có 2-3 loại tế bào làm các nhiệm vụ khác nhau như: dẫn truyền sơ khai, sinh sản, dinh dưỡng v.v.đây là những “mô nguyên thủy” hay “tiền mô”.

- Mô xuất hiện khi thực vật “lên cạn”, có những nhóm tế bào tập trung chuyên hóa để đảm đương các chức năng khác nhau .

- Thực vật khi sống ở môi trường nước tương đối ổn định, cơ thể ít biến đổi. Khi chuyển sang môi trường cạn kém ổn định, các yếu tố môi trường thay đổi, không thuận lợi, vì vậy cơ thể phân hóa để thích nghi với môi trường bằng cách hình thành những nhóm tế bào đảm đương các chức năng khác nhau.

Quá trình tiến hóa của Mô là quá trình chuyên hóa ngày càng cao về mặt tổ chức.

Như vậy mức độ tổ chức cao đã có mầm mống, tiền đề ngay trong mức độ tổ chức thấp và đồng thời bao gồm các mức độ tổ chức thấp, tạo nên hệ thống tổ chức các cấp bậc lệ thuộc. Ðó là biện chứng trong sự phát triển của vật chất sống

 

doc17 trang | Chia sẻ: thiennga98 | Lượt xem: 404 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Sinh học Lớp 6 - Chương 2: Mô thực vật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xenlulô có nguồn gốc từ tế bào mẹ ống rây, liên hệ với ống rây bằng những sợi liên bào thông qua phần mỏng của màng. Sự xuất hiện tế bào kèm là dấu hiệu tiến hoá cao của thực vật hạt kín. Có nhiều ý kiến về chức năng của tế bào kèm như dự trữ, tiết hệ thống men giúp ống rây khỏi đông chất hữu cơ. Ở thực vật hạt trần hay thực vật thân trụ tiến hóa thấp chưa có tế bào kèm chỉ có tế bào prôtit chứa nhiều prôtêin, nguồn gốc từ tế bào mô mềm phloem, chức năng gần giống tế bào kèm. * Mô mềm libe: Là những tế bào màng mỏng làm nhiệm vụ dự trữ và góp phần dẫn truyền qua các sợi liên bào . * Sợi libe: Là những tế bào chết hình thoi làm nhiệm vụ nâng đỡ ở thực vật hạt kín. - Libe thứ cấp: Được hình thành từ tầng phát sinh trụ thành phần cũng giống như libe sơ cấp, ngoài ra còn có thêm các sợi libe bổ sung, sợi libe hàng ngang, đó là những tế bào hình thoi, làm nhiệm vụ dự trữ . Cấu tạo chuyên hóa của libe thứ cấp còn biểu hiện ở sự hình thành sợi libe thường nằm thành đám xen kẻ với mô mềm libe, phân biệt các sợi đó là libe cứng và mô mềm đó là libe mềm. Ở các tế bào mô mềm libe thường chứa tinh bột, dầu, tanin và tinh thể. 3. Các kiểu bó mạch Tập hợp các yếu tố gỗ và libe được gọi là hệ thống dẫn. Hệ thống dẫn ở các cơ quan thực vật đều có cấu tạo theo một trật tự nhất định. Chúng có thể tập hợp thành những nhóm riêng gọi là bó mạch. Kiểu cấu taọ này thường thấy ở cơ quan non của đa số cây và ở trong cơ quan trưởng thành của một số cây khác. Ở những giai đoạn sinh trưởng sau của phần lớn thực vật 2 lá mầm và hạt trần thân gỗ, hệ thống dẫn thường họp thành một trụ dẫn liên tục với libe nằm ngoài, gỗ nằm trong, tầng phát sinh trụ nằm giữa gỗ và libe. Khái quát, chúng ta có thể phân biệt một số loại bó mạch sau : 3.1. Các kiểu bó mạch đơn giản Trong mỗi bó chỉ có 1 thành phần libe hoặc gỗ. Vì vậy có tác giả cho là bó mạch thiếu. Bó libe hoặc bó gỗ Loại bó mạch đơn giản có ở rễ là bó mạch phóng xạ, đối xứng qua tâm . 3.2. Các kiểu bó mạch phức tạp - Bó mạch đồng tâm: Là loại bó mạch kém tiến hóa nhất Bó gỗ libe: Gỗ trong, libe bao bọc ngoài (ở Quyết thực vật). Bó libe gỗ: Libe trong, gỗ ngoài (Họ Liliaceae) - Bó mạch chồng chất đơn: Gỗ dưới và libe ở trên . Bó mạch chồng chất đơn hở: Có tầng phát sinh trụ nằm giữa libe và gỗ (ở thực vật 2 lá mầm) Bó mạch chồng chất đơn kín: Không có tầng phát sinh trụ ở giữa bó mạch (ở thực vật một lá mầm ) - Bó mạch chồng chất kép: Có cả libe ngoài và libe trong . Bó mạch kép một tầng phát sinh trụ ( thấy nhiều ở thực vật 2 lá mầm ) Bó mạch kép đặc trưng (như ở Họ Cucurbitaceae ) - Bó mạch giải: Libe và gỗ làm thành dải xen kẻ nhau . Các kiểu bó mạch mang tính đặc trưng di truyền là những dấu hiệu chẩn đoán trong phân loại học. V. Mô cơ bản Mô cơ bản hay còn gọi là mô mềm, mô mềm gồm những tế bào chuyên hóa kém, đó là những tế bào sống, kích thước đồng đều. Các chức năng của mô mềm phụ thuộc vào sự có mặt của các thể nguyên sinh sống, chính vì vậy mô mềm có đặc tính phức tạp cao về mặt sinh lý, có khả năng phục hồi hoạt động phân sinh. Mô cơ bản chiếm một thể tích lớn trong cây với những giới hạn không gian không rõ rệt. Mô cơ bản có nguồn gốc từ mô phân sinh cơ bản góp phần cấu tạo nên cơ thể cây cấp một. Ngoài ra, hoạt động của các tầng phát sinh vỏ, tầng phát sinh trụ cũng có khi hình thành các tế bào mô mềm thứ cấp, ví dụ lục bì, mô mềm gỗ thứ cấp. 1. Phân loại mô mềm Tùy theo chức năng của các loại mô mềm khác nhau người ta phân biệt: 1.1. Mô mềm đồng hóa Có ở thịt lá, một phần ở thân non, có khi phân hóa thành mô dậu và mô khuyết. 1.2. Mô mềm dự trữ Mô mềm dự trữ có ở các cơ quan quả, hạt, ngay cả ở thân và rễ, chứa các sản phẩm dự trữ như tinh bột, dầu, prôtit, các chất đường v.v... Ở những cây mọng nước, mô mềm dự trữ nước như cây xương rồng, thuốc bỏng. Ở các cây thủy sinh hoặc ngập nước, bùn lầy, mô mềm hình thành các khoảng gian bào chứa khí như sen, súng, bần, đước. 1.3. Mô mềm có thể chuyên hóa thành các thành phần cơ học, các cấu trúc tiết. Ngoài ra, chúng còn góp phần vào việc vận chuyển như các tia ruột, các tế bào thu góp quanh bó mạch ở lá. Các tế bào mô mềm có khả năng phản phân hóa để hình thành các mô phân sinh thứ cấp . Nếu căn cứ vào vị trí mô mềm chủ yếu ở trong cây, có thể phân biệt được: Mô mềm vỏ Có ở vỏ sơ cấp và vỏ thứ cấp của thân, rễ. Mô mềm rễ cũng có khi chứa diệp lục để làm chức năng quang hợp, cũng có khả năng phản phân hóa thành tầng phát sinh vỏ và có thể dự trữ các chất dinh dưỡng, khí, nước... Người ta cũng thường bắt gặp các sản phẩm bài tiết như các tinh thể oxalat canxi, tanin,.v.v... ở trong mô mềm vỏ. Mô mềm ruột Gồm những tế bào sống có kích thước khác nhau. Về sau, ở một số cây, chúng có thể chết đi tạo thành những khoảng trống lớn như ở thân tre, mía, lúa v.v Mô mềm thịt lá Có 2 loại: Mô dậu gồm các tế bào chứa nhiều diệp lục nằm ở mặt trên lá và mô khuyết nằm ở mặt dưới lá gồm các tế bào sắp xếp chừa những khoảng gian bào lớn, có khi có ít diệp lục, chúng góp phần chứa khí, hơi nước cho cây. VI. Mô cơ Thực vật ở môi trường nước, cơ thể được nâng đỡ bởi lực đẩy Archimetre. Sự bền vững của cây chủ yếu do vai trò cơ học của tế bào từ ảnh hưởng của sức trương tế bào và sự bền vững của vách tế bào thực vật. Khi thực vật tiến lên môi trường cạn, lúc còn non sức trương của tế bào đủ để đảm bảo độ bền vững cơ thể, nhưng khi lớn lên với khối lượng và thể tích cây phát triển nhiều thì cần đến những yếu tố cơ học giúp các cơ quan, tổ chức cơ thể đứng vững, chịu được các tác nhân cơ học của môi trường. Từ đây mô cơ xuất hiện ngày một đa dạng và chuyên hóa cao. Ðó là những tế bào có tính bền vững bảo đảm chức năng cơ học, giữ vững cơ thể thực vật. Mô cơ sơ cấp có nguồn gốc từ mô phân sinh cơ bản. Chúng gồm có mô dày và mô cứng, mô cứng gồm có các sợi và tế bào đá. Mô cơ thứ cấp được hình thành từ tầng phát sinh trụ bao gồm các sợi gỗ và sợi libe thứ cấp. Căn cứ vào tính chất của màng tế bào, người ta phân biệt 1. Mô dày ( hậu mô ) Là những tế bào sống màng xenlulô cấp 1 dày lên. Sự có mặt của thể nguyên sinh sống ở tế bào mô dày làm người ta chú ý đến sự tương đồng sinh lý gắn bó giữa tế bào mô dày và mô mềm cũng như mối quan hệ về nguồn gốc của chúng. Mô dày thường gặp ở các cơ quan phát triển của cây 2 lá mầm của những cây thân cỏ trưởng thành. Thường không gặp ở những cây 1 lá mầm, mà ở những cây này thường sớm xuất hiện mô cứng. Vị trí của mô dày trong cây thường gặp ở vùng ngoại biên của thân, lá. Ở thân chúng xếp thành đoạn, thành bó hoặc thành vòng liên tục. Ở lá, chúng phân bố ở gân chính lá cây 2 lá mầm, bên ngoài bó mạch và dọc theo mép phiến lá. Chức năng chủ yếu của mô dày là nâng đỡ các cơ quan còn non, với các tế bào có độ bền vững khá cao chịu được 10-12 kg / mm2 sức nén cơ học. Chúng cũng tham gia một phần quá trình quang hợp. Tùy theo sự dày lên của vách tế bào mà người ta phân loại mô dày góc, mô dày phiến, mô dày xốp.vv... 2. Mô cứng (cương mô) Là những tế bào màng dày hóa gỗ, thường tập hợp từng nhóm hoặc riêng lẻ, là những tế bào có màng cấp 2 phát triển đàn hồi và cứng rắn. Tế bào mô cứng có ở khắp nơi trong cơ thể thực vật thường gặp ngay từ khi còn non ở thực vật một lá mầm và khi già ở thực vật 2 lá mầm, chúng thường thay đổi về hình dạng, cấu tạo, nguồn gốc và sự phát triển. - Sợi: Nằm rải rác, thành đám hay thành vòng liên tục. Sợi libe còn gọi là sợi vỏ, có nguồn gốc từ líbe, mô mềm và vỏ trụ. Màng sợi libe bằng xenlulôza nhưng thường hóa gỗ sớm, tập hợp các bó sợi tạo thành libe cứng. Phân biệt sợi libe sơ cấp có nguồn gốc từ tầng trước phát sinh, màng bằng xenlulôza và sợi libe thứ cấp có nguồn gốc từ tầng phát sinh trụ có nguồn gốc từ màng hóa gỗ nhiều. Sợi libe được dùng trong kỹ nghệ như các loại sợi gai, sợi đay, v.v... Sợi gỗ nằm trong phần gỗ thường ngắn hơn sợi libe, có màng tế bào hoá gỗ -  Tế bào đá: Tế bào đá có vách hóa gỗ dày cứng, khoang tế bào chỉ còn rất hẹp. Vách có cấu trúc lớp dày lên thứ cấp, có các lỗ đơn, kép. Tế bào đá có ở hạt, quả, lá, thân, nằm ở các vị trì vỏ hay ruột với nhiều dạng khác nhau, như dạng hình đều nhau, phân nhánh, hình sao hay hình que... Tế bào đá có thể được hình thành từ các mô phân sinh hay cũng có thể từ mô mềm cơ bản. VII. Mô tiết (cấu trúc tiết) Mô tiết hay còn gọi là các cấu trúc tiết, bao gồm các tế bào chuyên hóa làm chức năng bài tiết. Quá trình tách các sản phẩm được loại ra từ sự trao đổi chất là sự bài tiết (Kisser,1958). Tế bào thực vật sinh ra nhiều chất dường như không có ích trong sự trao đổi chất và ít nhiều tách rời khỏi thể nguyên sinh sống hoặc hoàn toàn bị loại trừ khỏi cơ thể thực vật. Cấu trúc liên quan đến sự bài tiết thường hết sức khác nhau về mức độ chuyên hóa và vị trí sắp xếp trong cơ thể . Người ta phân biệt các cấu trúc tiết bên ngoài và bên trong: 1. Cấu trúc tiết bên ngoài - Lông tiết: Ðơn hoặc đa bào, có nguồn gốc từ biểu bì hoặc dẫn xuất của biểu bì và có sự tham gia của các tế bào ở phía trong biểu bì. - Tuyến tiết: Tùy theo các sản phẩm tiết, chúng ta phân biệt tuyến tiết mật, tuyến tiết chất thơm thường có ở các bộ phận của hoa, tuyến tiết muối ở một số cây ngập mặn. 2. Cấu trúc tiết bên trong - Tế bào tiết: Có ở khắp cơ thể, sản phẩm tiết như nhựa, tinh dầu, tanin,... - Túi tiết và ống tiết: Có một vài lớp tế bào bao quanh, có 2 loại, túi và ống tiết phân sinh do các tế bào tách rời thành khoảng gian bào ở giữa, ví dụ ở thông. Túi và ống tiết dung sinh, do các tế bào ở giữa bị tiêu hủy thành một khoảng lớn, ví dụ ở lá cây cam. - Ống nhựa mủ: Hình thành từ tế bào mô mềm, chuyên hóa thành những ống chứa một chất lỏng đặc biệt như sữa, ống nhựa mủ là những tế bào sống có nhiều nhân, về sau chỉ còn lại ít nhân. Nguyên sinh chất hòa lẫn với nhựa mủ, nhựa mủ gồm các chất hydrat cacbon, các axit hữu cơ, muối ancaloit, chất nhầy, nhựa, gôm v.v... Về chức năng của chúng còn nhiều ý kiến khác nhau như dự trữ chất dinh dưỡng, là một hệ thống bài tiết, giúp vận chuyển chất dinh dưỡng v.v... Có 2 loại, ống nhựa mủ phân đốt và ống nhựa mủ không phân đốt.

File đính kèm:

  • docchuong 2 mo thuc vat.doc