Lịch sử dân tộc Mỹ là lịch sử của nhập cư và tính đa dạng. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
đã đón nhận nhiều người nhập cư hơn bất kỳ một quốc gia nào khác - tổng cộng hơn
50 triệu người - và vẫn có thêm gần 700.000 người mỗi năm. Ngày trước nhiều
tác giả Mỹ nhấn mạnh ý tưởng “nồi hầm nhừ” mà ở đó, những người mới đến sẽ từ
bỏ phong tục tập quán của mình và sử dụng cách mới của người Mỹ. Một ví dụ điển
hình là trẻ em sinh ra trong các gia đình nhập cư học tiếng Anh chứ không phải
tiếng mẻ đẻ của cha mẹ chúng. Tuy thế, trong những năm gần đây người Mỹ đã bắt
đầu coi trọng tính đa dạng, ý thức dân tộc được phục hồi và nền văn hóa được gìn
giữ, và con cái của những người nhập cư thường được dạy dỗ để nói cả hai thứ tiếng
108 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ebook Chân dung nước Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(Ảnh trang bên) Một phóng viên
của “New York 1”, một mạng
truyền hình chỉ phát tin tức, phát
sóng từ Liên Hợp Quốc.
(Ảnh trang này, từ trên xuống
dưới) Tổng thống Clinton gặp gỡ
báo chí tại phòng họp báo của
Nhà Trắng; Một sạp báo ở Thành
phố New York; Reverend Jesse
Jackson, một nhà hoạt động về
dân quyền có nhiều ảnh hưởng,
xuất hiện trên chương trình
truyền thanh.
104
Ngành truyền thông và các thông điệp
hành tƣơng đối ít, đôi khi còn có nội dung
nhằm gây sốc. Ví dụ, tờ “Afraid - Nỗi sợ
hãi” là một nguyệt san dành cho chuyện
kinh dị.
VAI TRÕ CỦA TRUYỀN THANH
Sự xuất hiện của các buổi phát thanh
thƣơng mại vào năm 1920 đã đem lại một
nguồn thông tin và giải trí mới trực tiếp đến
các gia đình Mỹ. Tổng thống Franklin Roo-
sevelt hiểu đƣợc sự hữu dụng của truyền
thanh nhƣ một phƣơng tiện truyền thông:
những buổi “chuyện trò bên lò sƣởi” của
ông giúp cho nhân dân nắm bắt đƣợc
những diễn biến kinh tế mới trong thời kỳ
Suy thoái và về những hoạt động quân sự
trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai.
Sự phổ biến rộng rãi của vô tuyến sau
Chiến tranh Thế giới Thứ hai đã khiến
những ngƣời điều hành đài phát thanh phải
xem xét lại chƣơng trình của mình. Truyền
thanh hầu nhƣ không thể cạnh tranh với sự
thể hiện trực quan của truyền hình trong
các vở kịch, hài kịch và chƣơng trình tạp
kỹ; nhiều đài phát thanh đã chuyển sang
một hình thức mới kết hợp âm nhạc với bản
tin và chƣơng trình chính. Bắt đầu từ
những năm 1950, rađiô đã trở thành một
phụ kiện tiêu chuẩn trong xe ô tô Mỹ.
Phƣơng tiện truyền thông này đã đƣợc
phục hƣng khi những ngƣời Mỹ đi ô tô
nghe rađiô trên đƣờng đi làm.
Sự phát triển rộng của sóng FM, với chất
lƣợng âm thanh tốt hơn nhƣng lại có dải tín
hiệu hạn chế hơn sóng AM, đã dẫn tới một
sự phân tách trong việc lên chƣơng trình
rađiô những năm 1970 và 1980. Sóng FM
đã dần chiếm lĩnh mảng âm nhạc trong
chƣơng trình, còn sóng AM thì tập trung
chủ yếu vào mảng tin tức và các buổi tọa
đàm.
Bắt đầu xuất hiện khoảng 25 năm trƣớc
đây, các buổi nói chuyện trên sóng phát
thanh thƣờng xoay quanh một vị chủ nhà,
một ngƣời nổi tiếng hoặc một chuyên gia
về lĩnh vực nào đó, và tạo cơ hội cho thính
giả gọi đến đặt câu hỏi hoặc thể hiện ý kiến
trên sóng phát thanh. Hình thức gọi điện
đến trao đổi ngày nay xuất hiện ở khoảng
1.000 trong số 10.000 đài phát thanh
thƣơng mại ở Hoa Kỳ.
Bất chấp tầm quan trọng của truyền hình,
tầm với của truyền thanh vẫn rất ấn tƣợng.
Vào năm 1994, 99% các gia đình Mỹ có ít
nhất một cái rađiô, với mức trung bình là 5
chiếc cho một gia đình. Ngoài 10.000 đài
phát thanh thƣơng mại, Hoa Kỳ còn có hơn
1.400 đài phát thanh công cộng. Hầu hết
các đài này đƣợc vận hành bởi các trƣờng
đại học và các tổ chức công khác vì mục
đích giáo dục và được cấp vốn bởi các quỹ
công và quyên góp tƣ nhân. Vào năm 1991,
mỗi tuần hơn 12 triệu ngƣời Mỹ nghe 430
đài phát thanh công cộng có liên kết với
Đài Phát thanh Quốc gia, một tổ chức phi
lợi nhuận hoạt động rộng khắp cả nƣớc có
trụ sở đặt tại Washington, D.C.
VÔ TUYẾN TRUYỀN HÌNH: KHÔNG
CHỈ CÓ BA MẠNG TRUYỀN HÌNH
LỚN
Từ sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, vô
tuyến truyền hình đã phát triển thành
phƣơng tiện phổ biến nhất ở Hoa Kỳ, có
ảnh hƣởng to lớn đến các cuộc bầu cử và
lối sống ở đất nƣớc này. Hầu nhƣ mọi gia
đình Mỹ - 97 triệu gia đình vào năm 1994 -
đều có ít nhất một máy thu hình, và 65%
trong số họ có từ hai chiếc trở lên.
Ba mạng lƣới tƣ nhân cung cấp chƣơng
trình miễn phí đƣợc tài trợ nhờ quảng cáo -
NBC, CBS và ABC - kiểm soát 90% thị
trƣờng TV từ những năm 1950 đến 1970.
Trong những năm 1980, sự lan truyền
nhanh chóng của truyền hình cáp trả tiền
truyền bằng vệ tinh đã làm suy yếu địa vị
độc tôn ấy. Cho đến năm 1994, gần 60%
các gia đình ở Mỹ đã đăng ký sử dụng
truyền hình cáp, và chƣơng trình ngoài
mạng lƣới đã thu hút đƣợc khoảng 30%
ngƣời xem. Trong số những kênh truyền
hình cáp mới, có một số kênh chiếu phim
suốt 24 giờ một ngày; CNN (Mạng tin tức
trên truyền hình cáp), sản phẩm của Ted
Turner, đƣa tin suốt cả ngày; và MTV thì
phát sóng các video ca nhạc.
Hiện nay, một mạng truyền hình thƣơng
mại lớn thứ tƣ là Fox đã xuất hiện và cạnh
tranh với ba mạng truyền hình lớn kể trên;
nhiều đài truyền hình địa phƣơng đã
Hầu hết
các tờ báo
của Mỹ đều
có trên
mạng In-
ternet, và
bất kz ai
với một
chiếc máy
tính cá
nhân và kết
nối với In-
ternet đều
có thể đọc
báo từ
khắp nơi
trên đất
nước.
105
Ngành truyền thông và các thông điệp
chuyển từ chi nhánh của ba mạng truyền
hình lớn sang thành chi nhánh của mạng
truyền hình mới. Hai mạng truyền hình
quốc gia khác - WB và UPN - cũng đã phát
triển, và số lƣợng các kênh truyền hình cáp
cũng tiếp tục tăng lên.
Có 335 đài truyền hình công cộng trên
khắp Hoa Kỳ, mỗi đài truyền hình trong số
đó đều độc lập và phục vụ những mối quan
tâm của cộng đồng mình. Song các đài
truyền hình đƣợc hợp nhất lại bởi những cơ
quan quốc gia nhƣ Cục Phát thanh Truyền
hình Công cộng, cơ quan này cung cấp
chƣơng trình. Những ngƣời đóng thuế Mỹ
phải trả một phần chi phí cho truyền hình
công cộng, đƣợc khoảng 87 triệu lƣợt
ngƣời xem mỗi tuần. Trong số các chƣơng
trình phổ biến nhất có “Sesame Street - Phố
Cây vừng”, một chƣơng trình dành cho trẻ
em dạy tập đọc và toán vỡ lòng thông qua
việc sử dụng con rối, phim hoạt hình, bài
hát và những màn hài kịch.
Từ cuối những năm 1970, các công ty
truyền hình cáp Hoa Kỳ đã bắt đầu cung
cấp dịch vụ cho những bộ phận dân chúng
chọn lọc. Các chƣơng trình của “Silent
Network - Mạng Im lặng” đƣợc phát sóng
với ngôn ngữ cử chỉ và dòng chữ thuyết
minh vì khán giả của mạng này là những
ngƣời khiếm thính. Vào năm 1988, Chris-
topher Whittle đã thành lập mạng truyền
hình cáp mang tên “Channel One - Kênh
Một” cung cấp chƣơng trình giáo dục -
cùng với mục quảng cáo - cho khoảng 40%
học sinh trung học của Mỹ. Ngoài ra, sự
hội tụ của máy tính, TV và cáp quang đã
nâng cao khả năng tƣơng tác của TV, cho
phép ngƣời xem chọn những chƣơng trình
cụ thể mà họ muốn xem vào thời gian mà
họ chọn.
NHỮNG VẤN ĐỀ HIỆN TẠI
Nhiều ngƣời Mỹ không hài lòng với những
cảnh bạo lực mà con cái họ thấy trên vô
tuyến. Để đáp lại những lời phàn nàn của
nhân dân và áp lực từ Quốc hội, 4 mạng
truyền hình chính - ABC, CBS, NBC và
Fox - đã thỏa thuận vào năm 1993 để thông
báo cho các bậc cha mẹ về nội dung bạo
lực vào lúc khởi đầu một chƣơng trình, và
các mạng truyền hình cáp đã thỏa thuận
đưa ra những lời cảnh báo tương tự. Vào
năm 1996, các mạng truyền hình thƣơng
mại và truyền hình cáp đã tiến thêm một
bƣớc và thiết lập một hệ thống đánh giá,
dựa trên thời lƣợng nội dung bạo lực, kích
dục, và/hoặc ngôn ngữ tục tĩu có trong một
chƣơng trình truyền hình. Một biểu tƣợng
thể hiện mức độ đánh giá đối với chƣơng
trình đó xuất hiện trên màn hình vào thời
điểm bắt đầu và thỉnh thoảng xuất hiện
giữa chƣơng trình truyền hình.
Những biện pháp tự nguyện nhƣ vậy tỏ ra
được ưa chuộng hơn những quy định của
chính phủ về nội dung chƣơng trình, mà
những quy định nhƣ vậy có thể vi phạm
Điều bổ sung sửa đổi thứ nhất của Hiến
pháp. Một giải pháp khác có thể áp dụng
cho vấn đề này là giải pháp công nghệ. Bắt
đầu từ năm 1998 những chiếc tivi mới bán
tại Hoa Kỳ sẽ đƣợc trang bị một con “chip
V”, một thiết bị cho phép cha mẹ khóa
những chƣơng trình mà họ không muốn
con cái xem.
Những lời phàn nàn tƣơng tự cũng đã nổi
lên về lời lẽ và hình ảnh có thể truy cập
trên máy tính. Gần đây Quốc hội đã thông
qua một đạo luật nhằm ngăn không để
những hình ảnh và ngôn ngữ không đứng
đắn được truyền trên mạng máy tính, song
một tòa án Liên bang đã bác bỏ đạo luật
đó, coi nó là không hợp hiến. Nếu có một
giải pháp cho vấn đề này, thì có lẽ giải
pháp đó nằm trong hoặc là sự kiểm soát
chặt chẽ của cha mẹ đối với thời gian sử
dụng máy tính của con cái hoặc là sự phát
triển của một loại hàng rào công nghệ ngăn
không cho sử dụng một số chức năng của
máy tính.
Một trong những vấn đề gây tranh luận
nhất liên quan đến ngành truyền thông mà
nƣớc Mỹ gặp phải ngày nay rất ít liên quan
tới công nghệ mà liên quan nhiều hơn đến
khái niệm lâu đời về sự riêng tƣ cá nhân:
liệu có khía cạnh nào trong cuộc sống của
một con ngƣời nên đƣợc giữ kín một khi
ngƣời đó trở thành một nhân vật đại chúng.
Vào năm 1988, một ứng cử viên tổng thống
quan trọng là Thƣợng Nghị sĩ Gary Hart đã
rút lui khỏi cuộc chạy đua tranh cử sau khi
báo chí lật tẩy cuộc tình của ông với một
ngƣời phụ nữ trẻ. Các chính trị gia thuộc cả
hai đảng phàn nàn rằng báo giới “quyết
106
Xuất khẩu văn hóa đại chúng
tâm túm lấy” họ, và một số thành viên thủ
cựu của Quốc hội khẳng định rằng ngành
truyền thông có xu hƣớng ủng hộ những
ngƣời theo chủ nghĩa tự do. Nhiều nhà phê
bình cho rằng sự tò mò gia tăng của ngành
truyền thông sẽ cản trở những ngƣời có
năng lực tham gia làm chính trị, bất kể đức
tin của họ ra sao.
Mặt khác, trƣớc đây các phóng viên hầu
nhƣ đều kết hợp với các chính trị gia trong
việc ngăn không để công chúng biết về
những điểm yếu cá nhân. Thân hình khập
khiễng của Tổng thống Franklin Roosevelt
không bị ngƣời ta bàn tán hay chụp hình,
và tình trạng sức khỏe yếu của ông đƣợc
giữ bí mật với cử tri khi ông tranh cử
nhiệm kỳ thứ tƣ vào năm 1944. Dù thế nào
thì đa số cử tri có thể vẫn bầu Roosevelt,
song việc không cho họ biết sự thật dƣờng
nhƣ là một việc thiếu trung thực đối với
hầu hết dân Mỹ ngày nay, họ tin tƣởng
rằng trong một nền dân chủ, chia sẻ thông
tin thì tốt hơn là che giấu nó.
107
B
ản
đ
ồ
n
ƣ
ớ
c
M
ỹ
- 32 -
Trung tâm Hoa Kỳ
Phòng Thông tin-Văn hóa, Đại sứ quán Hoa Kỳ
Tầng 1, Rose Garden Tower, 170 Ngọc Khánh, Hà Nội
Tel: (04) 3850-5000; Fax: (04) 3850-5048; Email: HanoiAC@state.gov
File đính kèm:
- Chan dung nuoc My.pdf