Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là tiền đề vật chất quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội; là điều kiện thường xuyên, cần thiết trong quá trình sản xuất; là một trong những nhân tố tạo vùng quan trọng.
Việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên sẽ đảm bảo cho phát triển hôm nay và cho sự phát triển bền vững trong tương lai. Việc đánh giá thực trạng về tài nguyên thiên nhiên nước ta còn là một vấn đề mà cho đến nay chúng ta cũng chưa thể khẳng định được cụ thể. Có thể phân chia tài nguyên thiên nhiên dựa vào đặc điểm, tính chất tự nhiên và mục đích sử dụng (theo sơ đồ). Việc phân loại như trên là nhằm khai thác, sử dụng các tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, có tính đến việc bảo vệ, khôi phục tài nguyên thiên nhiên.
4 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 7880 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều kiện tự nhiên – tài nguyên thiên nhiên, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN.
ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA ĐẤT NƯỚC
1.3.1. Đặc điểm chung
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là tiền đề vật chất quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội; là điều kiện thường xuyên, cần thiết trong quá trình sản xuất; là một trong những nhân tố tạo vùng quan trọng.
Việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên sẽ đảm bảo cho phát triển hôm nay và cho sự phát triển bền vững trong tương lai. Việc đánh giá thực trạng về tài nguyên thiên nhiên nước ta còn là một vấn đề mà cho đến nay chúng ta cũng chưa thể khẳng định được cụ thể. Có thể phân chia tài nguyên thiên nhiên dựa vào đặc điểm, tính chất tự nhiên và mục đích sử dụng (theo sơ đồ). Việc phân loại như trên là nhằm khai thác, sử dụng các tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, có tính đến việc bảo vệ, khôi phục tài nguyên thiên nhiên.
Các dạng tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên có thể bị hao kiệt
Tài nguyên thiên nhiên không bị hao kiệt
Tài nguyên thiên nhiên không khôi phục được
Tài nguyên thiên nhiên khôi phục được
(Các đường đứt gãy trong hình biểu diễn đặc điểm biện chứng trong quá trình sử dụng tài nguyên; một số nguyên tố có thể chuyển từ nhóm này sang nhóm khác)
1.3.2. Địa hình
a. Đặc điểm chung:
Địa hình đồi núi chiếm 3/4 diện tích đất đai, làm cho thiên nhiên VN có đặc điểm chung là thiên nhiên của đất nước nhiều đồi núi. Đồi núi thấp chiếm ưu thế với > 60% diện tích cả nước, núi cao > 2000m chỉ chiếm 1,0%. Đồng bằng chiếm 1/4 diện tích, tạo thành một dải hẹp ở Trung Bộ và mở rộng ở Bắc Bộ và Nam Bộ.
Hướng tây bắc-đông nam là hướng nghiêng chung của địa hình, đồng thời là hướng chính của các dãy núi vùng Tây Bắc, Bắc Trường Sơn và các hệ thống sông lớn. Hướng vòng cung là hướng của các dãy núi, các sông ở vùng Đông Bắc và hướng của địa hình Nam Trường Sơn
b. Tính đa dạng của địa hình
* Khu vực đồi núi. Địa hình núi chia thành 4 vùng:
- Vùng núi Đông Bắc: nằm ở tả ngạn sông Hồng với 4 cánh cung lớn, đầu chụm ở Tam Đảo và mở ra về phía bắc và phía đông (cánh cung sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn, Đông Triều), núi thấp chiếm phần lớn diện tích. Theo hướng các dãy núi là hướng vòng cung của các dòng chảy sông Cầu, Thương, Lục Nam (thuộc hệ thống sông Thái Bình). Địa hình vùng Đông Bắc cũng có hướng nghiêng chung là tây bắc-đông nam. Những đỉnh núi cao trên 2000m nằm ở thượng nguồn sông Chảy. Giáp biên giới Việt-Trung (Hà Giang, Cao Bằng) là các khối núi đá vôi độ cao trên 1000m. Trung tâm là vùng đồi núi thấp 500-600m.
- Vùng núi Tây Bắc: nằm giữa sông Hông và sông Cả, có địa hình cao nhất nước ta với 3 dãy núi lớn hướng tây bắc-đông nam. Phía đông là dãy Hoàng Liên Sơn: giới hạn từ biên giới Việt-Trung (thuộc tỉnh Lào Cai) tới khủyu sông Đà, có đỉnh phanxipăng (3143m) cao nhất nước ta; phía tây là địa hình trung bình của dãy sông Mã chạy dọc biên giới Việt-Lào từ Khoan La San đến sông Cả; ở giữa thấp hơn là các dãy núi xen kẽ các cao - sơn nguyên đá vôi từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Mộc Châu (Sơn La), tiếp nối là những đồi núi đá vôi ở Ninh Bình - Thanh Hóa. Kẹp giữa các dãy núi là các thung lũng sông cùng hướng (sông Đà, sông Mã, sông Chu)
- Vùng núi Trường Sơn Bắc (thuộc Bắc Trung Bộ) giới hạn từ phía nam sông Cả tới dãy Bạch Mã, gồm các dãy núi song song và so le theo hướng tây bắc-đông nam. Địa hình Bắc Trường Sơn thấp và hẹp ngang, chỉ nâng cao ở 2 đầu: phía bắc là vùng núi Tây Nghệ An và phía nam là vùng núi Tây Thừa Thiên-Huế, mạch núi cuối cùng là dãy Bạch Mã - ranh giới với vùng núi Nam Trường Sơn và cũng là bức chắn ngăn cản các khối khí lạnh tràn xuống phương Nam
- Vùng Nam Trường Sơn: gồm các khối núi và cao nguyên. Khối núi Kon Tum và khối núi cực Nam trung bộ được nâng cao, đồ sộ. Có những đỉnh cao > 2000m nghiêng dần về phía đông, tạo nên thế chênh vênh của đường bờ biển có sườn dốc và dải đồng bằng nhỏ hẹp ở ven biển. Tương phản với địa hình vùng núi phía đông là các bề mặt cao nguyên khá bằng phẳng, làm thành các bề mặt cao nguyên 500 - 800 - 1000m tạo nên sự bất đối xứng rõ nét giưa 2 sườn Đông - Tây của địa hình Nam Trường Sơn
* Địa hình bán bình nguyên và đồi trung du: Nằm chuyển tiếp giữa miền núi - đồng bằng là các bề mặt bán bình nguyên hoặc các đồi trung du. Bán bình nguyên thể hiện rõ ở Đông Nam Bộ với bậc thềm phù sa cổ ở độ cao ~ 100m và bề mặt phủ ba dan ở độ cao ~ 200m. Địa hình đồi trung du phần nhiều là do tác động của dòng chảy chia cắt các thềm phù sa cổ, đồi trung du rộng lớn nhất ở rìa Đồng bằng sông Hồng và thu hẹp ở rìa đồng bằng ven biển miền Trung
*Khu vực đồng bằng
- Hai đồng bằng châu thổ lớn: ĐB sông Cửu Long rộng trên 40.000 km2, ĐB sông Hồng 15.000 km2. Hai đồng bằng này hình thành trên các vùng sụt lún ở hạ lưu sông, có bờ biển phẳng, vịnh biển nông, thêm lục địa rộng. ĐB sông Cửu Long thấp, phẳng, không có đê, mạng lưới kênh rạch chằng chịt, mùa lũ nước ngập sâu ở các vùng trũng, mùa khô nước triều lấn mạnh làm cho 2/3 diện tích đồng bằng bị nhiễm mặn. ĐB sông Hồng cao và chia cắt hơn, do có hệ thống đê ven sông ngăn lũ nên vùng trong đê không được bồi đắp phù sa hàng năm, tạo thành các bậc ruộng cao bạc màu và các ô trũng ngập nước, vùng ngoài đê thường xuyên được phù sa bồi đắp. Do địa hình khá bằng phẳng, đất phù sa màu mỡ, hai đồng bằng này đã trở thành vùng trọng điểm LT-TP lớn của cả nước. Ngoài ra, ở ven biển có các bãi triều, vũng vịnh, đầm phá có tiềm năng lớn cho nuôi trồng thủy sản.
- Các đồng bằng ven biển miền Trung, diện tích ~ 15.000 km2, hẹp ngang và bị chia cắt thành nhiều đồng bằng nhỏ. Chỉ có một vài đồng bằng được mở rộng ở cửa sông lớn như đồng bằng Thanh Hóa (cửa sông Mã), Nghệ An (cửa sông Cả), Quảng Nam (cửa sông Thu Bồn) và Phú Yên (cửa sông Ba). Ở nhiều đồng bằng có sự phân chia thành 3 dải (giáp biển là cồn cát, đầm phá; giữa là vùng thấp trũng; trong cùng đã được bồi tụ thành đồng bằng). Trong sự hình thành đồng bằng, thì biển đóng vai trò chủ yếu. Đất có đặc tính là nghèo, ít phù sa. Các nhánh núi lan ra sát biển khiến cho nhiều đoạn địa hình bờ biển khúc khủyu, lắm mũi đất, nhiều đèo.
c. Ảnh hưởng của địa hình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
* Ở vùng núi: Khoáng sản: khu vực đồi núi tập trung nhiều loại khoáng sản có nguồn gốc nội sinh (đồng, chì, thiếc, sắt, pyrit, niken, crôm, vàng, vonfram, antimoan...) và các khoáng sản ngoại sinh (bôxit, apatit, đá vôi, than đá); đó là nguyên liệu, nhiên liệu cho nhiều ngành công nghiệp. Rừng và đất trồng: tạo cơ sở cho phát triển nông - lâm nhiệt đới; Rừng giàu có về thành phần loài động - thực vật (trong đó có nhiều loài quí hiếm tiêu biểu cho sinh vật rừng nhiệt đới). Miền núi còn có các cao nguyên và thung lũng tạo thuận lợi cho việc hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả, phát triển chăn nuôi gia súc. Ở các vùng núi cao có thể nuôi - trồng được các loài động - thực vật cận nhiệt và ôn đới. Địa hình bán bình nguyên và đồi trung du thích hợp để trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và cả cây lương thực. Nguồn thủy năng: các sông lớn có tiềm năng thủy điện lớn. Tiềm năng du lịch: miền núi có nhiều điều kiện phát triển nhiều loại hình du lịch (tham quan, nghỉ dưỡng...) nhất là du lịch sinh thái
* Ở vùng đồng bằng: Là cơ sở để phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới, đa dạng các loại nông sản; Cung cấp các nguồn lợi thiên nhiên khác nhau (khoáng sản, thủy sản và lâm sản). Là điều kiện thuận lợi để tập trung các thành phố, các khu công nghiệp, các trung tâm thương mại.
* Khai thác những thế mạnh: Vùng núi, phương thức canh tác thích hợp nhất là nông-lâm kết hợp (canh tác trên đất dốc). Tiềm năng chính ở đây là lâm sản, cây công nghiệp , cây ăn quả, chăn nuôi gia súc lớn, khai thác khoáng sản và thủy điện. Riêng với công nghiệp, có khả năng phát triển các ngành công nghiệp "thượng du" (khai thác trực tiếp từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên). Vùng trung du, với vị trí địa lý đặc biệt (địa hình là những vùng đồi, địa chất công trình lý tưởng), có khả năng lớn để phát triển cây công nghiệp; công nghiệp cơ bản (năng lượng và công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng). Vùng đồng bằng, nơi hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi; là nơi tập trung các ngành công nghiệp "hạ du" (các ngành chế biến, sản xuất các thành phẩm cuối cùng). Nông nghiệp ở đây là thâm canh cây lương thực - thực phẩm; chăn nuôi gia súc nhỏ, gia cầm; thủy sản và các ngành dịch vụ.
● Những mặt hạn chế
- Vùng đồi núi: Chủ yếu là đồi núi thấp nhưng địa hình bị chia cắt mạnh, tạo nên nhiều sông suối, hẻm vực, sườn dốc gây trở ngại cho giao thông vận tải, cho việc khai thác tài nguyên và giao lưu giữa các vùng. Do mưa nhiều, sườn dốc mạnh, miền núi còn là nơi xảy ra nhiều thiên tai như lũ nguồn, lũ quét, xói mòn, trượt lở đất; Tại các đứt gãy sâu có nguy cơ phát sinh động đất; Nơi khô nóng thường xảy ra nạn cháy rừng; Miền núi đá vôi và vùng đất đỏ ba dan thường thiếu nước trong mùa khô; Vùng núi cao địa hình hiểm trở cuộc sống của người dân càng gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc khai thác và sử dụng hợp lý miền đồi núi không chỉ giúp cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở các miền này, mà còn có ý nghĩa cho việc bảo vệ môi trường sinh thái chung của cả nước.
- Vùng đồng bằng: có mối quan hệ chặt chẽ với địa hình miền núi. Các sông lớn mang vật liệu phù sa từ miền đồi núi bồi đắp mở rộng các đồng bằng châu thổ. Nhưng do tài nguyên rừng đang bị khai thác quá mức, diện tích đất trống đồi núi trọc tăng lên kèm theo với nó là cường độ xói mòn đất vào mùa mưa diễn ra ngày càng mạnh đã gây hậu quả rất lớn, làm giảm tuổi thọ các công trình thủy điện, thủy lợi, phù sa lắng đọng ở các vùng cửa sông ven biển cản trở cho giao thông vận tải đường thủy. Thiên tai (bão, lụt, hạn hán) thường xuyên xảy ra gây thiệt hại lớn về người và tài sản
(Theo ĐỊA LÝ KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM- Nguyễn Duy Hòa)
File đính kèm:
- Dieu kien tu nhien va tai nguyen thien nhien.doc