Xưa nay, nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều , người ta thường hay chú ý trước hết đế những chỗ dùng từ chính xác, từ hay , tinh tế thường được gọi là lối dùng từ đắt của Nguyễn Du ,cũng như cách dùng hư từ , khối lượng từ đồng nghĩa , từ có phong cách khẩu ngữ, từ mang phong vị ca dao , thành ngữ, tục ngữ .
Ví như hai từ đầy đặn , nở nang trong câu thơ : Khuôn trăng đầy đặn / Nét ngài nở nang khi tác giả dùng để miêu tả Thuý Vân. Hai từ đó không chỉ đơn thuần là miêu tả khuôn mặt tròn trịa ,đầy đặn như mặt trăng đêm rằm của nàng Vân , cũng như cả cái nét ngài minh bạch ,rõ ràng , uốn cong thanh tú của nàng mà đó còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận , của cuộc đời nàng . Hai chữ thua , nhường trong câu thơ Mây thua nước tóc , tuyết nhường màu da dùng để chỉ thiên nhiên và cũng chính là tạo hoá sẽ chịu thua mái tóc mây, dài, xanh mượt, màu da trắng như tuyết để nhường bước cho nàng đi trên con đường bằng phẳng , không hề có chông gai .
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1936 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vẻ đẹp ngôn từ nghệ thuật truyện Kiều của Nguyễn Du qua một số đoạn trích đã học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyền lựa mặt gia nhân, (11) Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.(12) Làm ho cho mệt cho mê, (13) Làm cho đau đớn ê chề cho coi!. (14) Trước cho bỏ ghét những người, (15) Sau cho để một trò cười về sau. (16) Phu nhân khen chước rất mầu, (17) Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay. (18) Câu 1,2 là tác giả thuật việc. Câu 3,4 là tóm tắt câu chuyện uất ức của Hoạn Thư. Câu 5,6,7 là lòi trực tiếp của Hoạn Thư đối với mẹ, nhưng nghe như là độc thoại. Câu 8 là lời thuật của người thuật xen vào. Câu 9 đến câu 16 ở đoạn này tiếp tục lời thoại. Câu 13, 14, 15, 16 lại là lời vừa nói với mẹ , vừa giống như độc thoại, buộc chân nàng về tì làm sao? Hoạn Thư khng6 nói rõ, mà tự sự cũng không cho biết hết. Câu 17 và nửa đầu câu 18 là lời thuật của tác giả, nửa câu 18 là lời của Hoạn Bà. Có thể nói độc thoại hoá làm co tâm tình, dục vọng của nhân vật nổi lên lồ lộ. Nguyễn Du không quan tâm nhiều đến lí lẽ củasự việc, mà quan tâm đến nỗi lòng của nhân vật. Đoạn Từ Hải chịu hàng người đọc đều thấy không thông, không hiểu vì sao Từ nghe lời khuyên của Kiều đề cao ơn vua mà lại thấy “ mặn mà”. Trong Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm Tài Nhân chú ý kể chuyện sứ giả thuyết hàng, Từ nổi giận, Kiều khuyên giải làm cho Từ đuối lý. Tiếp đến Từ Hải nêu việc hàng có 3 điều lợi 5 điều hại, lợi bất cập hại, không hàng. Kiều phân tích lại cho Từ thấy có 3 điều tiện và 5 điều lợi, làm cho Từ nghe mà nhận hàng. Như nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra, Nguyễn Du đã tạo ra một Từ Hải khác, và để cho Từ Hải thổ lộ một đoạn độc thoại nội tâm cực hay, đầy khí phách, vượt xa những dấu hiệu vừa nêu trong truyện Trung Hoa của Thanh Tâm Tài Nhân : Một tay gây dựng cơ đồ Bấy lâu biển Sở, sông Ngô tung hoành! Bó tay về với triều đình, Hàng thần lơ láo, phận mình ra sao? Áo xiêm ràng buộc lấy nhau, Vào luồng, ra cúi, công hầu mà chi? Sao bằng riêng một biên thuỳ, Sức này, đã dễ làm gì được nhau? Chọc trời, quấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên dầu có ai? Lời đọc thoại nội tâm rõ ràng đã bộc lộ tâm tình nhân vật trọn vẹn, đầy đủ hơn là lời đối đáp của Từ trong cơn giận do cuộc khuyên hàng gợi lên như trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tiếp đến Kiều cũng có một tâm sự riêng bộc lộ trong 12 câu đôc thoại :
Nghĩ mình mặt nước cánh bèo, Đã nhiều luân lạc lại nhiều gian truân. Bằng nay chịu tiếng vương thần, Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì. Công, tư vẹn cả đôi bề, Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương. Cũng ngôi mệnh phụ đường đường, Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha. Trên vì nước, dưới vì nhà, Một là đắc hiếu, hai là đắc trung. Chẳng hơn chiếc bánh giữa dòng, E dè bảo tố, hãi hùng phong ba. Sau màn độc thoại nội tâm, mới đến Kiều khuyên chỉ trong 10 câu lục bát mà Từ đã hàng. Như vậy, lời khuyên của Kiều và sự nghe lời của Từ là chiếu lệ, đều thể hiện sự bế tắc trong tư tưởng. Nguyễn du chủ yếu là thể hiện được nội tâm nhân vật qua lời độc thoại trực tiếp tự do. Kể rõ 3 điều tiện, 5 điều lợi … như Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là logic hình thức, không có ý nghĩa gì. Đã không có ý nghĩa thì dài dòng làm chi! Sao bằng Nguyễn Du ta!.
- Lời nửa trực tiếp trong” Truyện Kiều” của Nguyễn Du : Truyện Kiều cũng có những câu làm nghĩ tới lời nửa trực tiếp. Ví dụ như:
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê, Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn. Câu bát có hình thức trần thuật của tác giả, nhưng cái ý thức “Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn” là của nhân vật. Hoặc như câu: Êm đềm trướng rủ màn che Tường đông ong bướm đi về mặc ai! Câu bát là lời nửa trực tiếp, nói cái ý “ta còn cao giá” của nhân vật trong lời trần thuật của người kể. Lời nửa trực tiếp không chỉ là lời bộc bạch ý nghĩ của nhân vật mà nó còn là lời của tác giả muốn thể hiện trong tác phẩm. Như vậy, lời nửa trực tiếp có thể hiểu đó là lời của người kể chuyện, cũng có thể hiểu đó là lời của nhân vật. Lời thuật là của tác giả nhưng nội dung và ngữ điệu là của nhân vật. Hay nói đúng hơn, chủ thể lời nói là người kể, mà chủ thể ý thức của lời nói là nhân vật. Mà qua đó, mượn lời nhân vật, tác giả nhằm bộc lộ quan niện, tưởng của mình. Có thể thấy, giọng điệu của Truyện Kiều đã được nhận ra từ lâu như một “tiếng kêu thương” (Hoài Thanh), “tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày” (Tố Hữu). Nhưng đó là nhận xét chủ yếu trên phương diện tư tưởng, gắn liền với “cảm hứng nhân đạo và cảm hứng hiện thực”, còn giong điệu cảm thương như một hiện tượng nghệ thuật thường có trong tác phẩm. Đó là tiếng kêu thương đau đớn, da diết, thống thiết để bộc lộ tâm tư của tác giả nhan nhản khắp nơi dưới nhiều hình thức trong tác phẩm. Tiêu biểu là qua lời của nhân vật. Ta hãy xét lời nửa trực tiếp trong trường hợp đó. Đoạn Kiều thương xót Đạm Tiên mà ta nghe như là tiếng lòng của tác giả được biểu hiện trong đó: Lòng đâu sẵn mối thương tâm, Thoắt nghe nàng đã đầm đầm châu sa. Đau đớn thay phận đàn bà ! Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Phủ phàng chi bấy hóa công, Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha; Sống, làm vợ khắp người ta, Hại thay ! Thác xuống làm ma không chồng ! Nào người phượng chạ loan chung, Nào người tích lục, tham hồng là ai ? Hai câu đầu là lời dẫn của tác giả để những câu còn lại trong đoạn là lời độc thoại nội tâm của Kiều thương xót cho Đạm Tiên. Nhưng qua lời độc thoại của nhân vật, ta dường như thấy trong đó là lời của tác giả muốn nói với ta về nỗi lòng thương xót của mình đối với những người hồng nhan tài hoa bạc mệnh. Hay trong đoạn Kiều than thở: Buồn riêng, riêng những sụt sùi, Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân: “ Tiếc thay trong giá trắng ngần, Đến phong trần, cũng phong trần như ai! Tẻ, vui cũng một kiếp người Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru! Kiếp xưa đã vụn đường tu, Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi! Dẫu sao bình đã vỡ rồi, Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!” Hai câu đầu là lời dẫn của người kể để những câu còn lại trong đoạn là lời độc thoại nội tâm của Kiều thương cho thân phận của mình. Qua đó ta nghe như văng vẳng tiếng lòng của tác giả như chia sẻ cùng nhân vật, cùng tâm sự với nhân vật của mình: “ Dẫu sao bình đã vỡ rồi / Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!”. Đó là một lời cảm thông mà cũng là một tiếng nói đau lòng từ một trái tim “rỉ máu” của Nguyễn Du thương xót cho nhân vật mình. Đó chảng phải Nguyễn Du đang giao tiếp, đang tâm sự cùng nhân vật mình đó sao? Chúng ta có thể thấy trong Truyện Kiều rất nhiều hình thức như vậy : Khéo là mặt dạn mày dày, Kiếp người đã đến thế này thì thôi! Thương thay thân phận lạc loài, Dẫu sao cũng ở tay người biết sao?
Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?
Lần lần thỏ bạc ác vàng, Xót người trong hội đoạn trường dòi cơn. Đã cho lấy chữ hồng nhan, Làm cho : cho hại, cho tàn, cho cân! Đã đày vào kiếp phong trần, Sao cho sĩ nhục một lần mới thôi! Hay trong đoạn Kiều đàn cho Kim Trọng nghe. Mượn lời Kim nhận xét tiếng đàn của Thúy Kiều, tác giả như cũng thể hiện tâm sự của mình: Ngọn đèn khi tỏ khi mờ, Khiến người ngồi đó mà ngơ ngẩn sầu. Khi tựa gối, khi cúi đầu, Khi vò chín khúc, khi chau đôi mài, Rằng : “hay thì thật là hay, Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào! Lựa chi những khúc tiêu tao, Cực lòng mình, cũng nao nao lòng người!” Ta như thấy Nguyễn như đang cùng ngồi đấy theo dõi từng tiếng đàn của Kiều, và qua lời nói của Kim, ta như nhận thấy đó là lời của tác giả nhận xét về nhân vật mình. Còn trong đoạn sau này : Tiếc thay một đóa trà mi, Con ong đã tỏ đường đi lối về! Một cơn mưa gió nặng nề, Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương. Đêm xuân một giấc mơ màng, Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ! Nỗi riêng tầm tả tuôn mưa, Phần căm nỗi khách, phần dơ nỗi mình: Tuồng chi là giống hôi tanh, Thân nghìn vàng để ô danh má hồng! Thôi còn chi nữa mà mong, Đời người đên thế là xong một đời! Bốn câu cuối ta dường như thấy đó vừa là lời của Thúy Kiều, vừa là lời của Nguyễn Du. Hình ảnh Mã Giám Sinh không còn ra gì nửa, khác chi “ một giống côn trùng hôi tanh”, và ngòi bút của Nguyễn Du như đang hướng tới Mã Giám Sinh, lột trần tất cả bản tính của hắn như để tỏ một mối cảm thông, thương xót cho nhân vật mình. Có thể nói, bằng cách sử dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp trong độc thoại nội tâm của nhân vật, tác giả như muốn hòa mình vào đó để tự nhiên bày tỏ quan niệm, suy nghĩ, cách đánh giá của mình một cách khách quan. Nội dung và ngữ điệu hoàn toàn là của nhân vật, nhưng chủ thể lời nói là của người kể. đó chẳng phải là một nghệ thuật độc đáo trong việc thể hiện quan niệm của tác giả trong tác phẩm đó
* Tổng kết chuyên đề : Một trong những nghệ thuật đặc sắc được Nguyễn Du thể hiện trong “Truyện Kiều” là hình thức hoạt động giao tiếp ngôn ngữ của các nhân vật trong truyện. Trong đó, độc thoại nội tâm là hình thức hoạt động đặc biệt của ngôn ngữ. Độc thoại nội tâm làm cho diện mạo tinh thần của các nhân vật trở nên nổi bật, sắc nét và diện mạo, cảm quan của tác giả được thể hiện sinh động, độc đáo và sâu sắc. Đây cũng là điều mà nhiều nhà nghiên cứu đã từng xác nhân. Trong “ Truyện Kiều” đã xuất hiện lời độc thoại nội tâm với các dặc trưng của nó là lời trực tiếp tự do, dòng ý thức và lời nửa trực tiếp trong tâm trạng nhân vật. Bằng những hình thức thể hiện như thế, chúng ta có thể đi sâu vào phân tích những hình tượng cụ thể trong tác phẩm trong một đề tài cao hơn, sâu hơn. Với thời diện của một tiểu luận nhỏ, chúng tôi chỉ đi vào phân tích một số chi tiết tiêu biểu cũng mong sẽ làm sáng tỏ vấn đề đặt ra. Có thể nói, hình thức thể hiện độc thoại nội tâm trong “Truyện Kiều” đã đổi mới hoàn toàn phong cách tự sự trong “Truyện Kiều”, một bước đột phá truyền thống tự sự Trung Quốc-Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mà Nguyễn Du đã tiếp xúc, tạo ra một điểm mới trong biểu hiện nội tâm nhân vật – khởi đầu cho truyền thống mới cho tự sự Việt Nam.Đó chẳng phải Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, làm phong phú thêm “ tính chất đặc sắc” của tiếng Việt ta đó sao ?
File đính kèm:
- Ve dep ngon tu trong truyen Kieu.doc