Đề tài Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3

Xuất phát từ yêu cầu đổi mới của đất nước, trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục. Một trong những nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đào tạo hiện nay là: hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh một cách toàn diện theo mục tiêu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước

doc11 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 2360 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
học sinh lớp 3 trong học kỳ I năm học 20...-20... tôi đã thu được kết quả như sau: - Tổng số học sinh lớp 3A là 24 em: Số học sinh đạt yêu cầu về nhận biết tu từ so sánh Số học sinh chưa có kỹ năng nhận biết tu từ so sánh nhanh Số học sinh còn nhầm lẫn khi nhận biết tu từ so sánh 9/24 ≈ 37,5% 10/24 ≈ 41,7% 5/24 ≈ 20,8% III. Mô tả nội dung 1. Nội dung chương trình: Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu đề tài, tôi thống kê phân tích các hướng nghiên cứu biện pháp so sánh trong phân môn: "Luyện từ và câu" của chương trình SGK lớp 3 phục vụ cho việc giảng dạy. Kiến thức lý thuyết về so sánh tu từ được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 3 ở phân môn: "Luyện từ và câu". Toàn bộ chương trình Tiếng Việt 3 - Tập I đã dạy về so sánh gồm 8 bài với các mô hình sau: a) Mô hình 1:                       So sánh: Sự vật - Sự vật. b) Mô hình 2:                       So sánh: Sự vật - Con người. c) Mô hình 3:                       So sánh: Hoạt động - Hoạt động. d) Mô hình 4:                       So sánh: Âm thanh - Âm thanh. Tác giả SGK đã giúp học sinh nhận diện dạng, loại và phân biệt hiệu quả so sánh qua các dạng bài tập. 2. Những giải pháp chủ yếu Vì trong SGK có ít bài tập sáng tạo và còn đơn điệu, kiến thức còn mang tính trừu tượng nên giáo viên cần phải sưu tầm nhiều dạng bài sáng tạo và kiến thức cụ thể nói theo tình huống. Vì khi giáo viên đưa, cần đưa lệnh bài tập rõ ràng để học sinh hiểu được mục đích yêu cầu của bài tập. * Ví dụ 1: Bài tập 1 (Trang 6): Tìm các từ ngữ chỉ sự vật trong khổ thơ sau: "Tay em đánh răng Răng trắng hoa nhài Tay em chải tóc Tóc ngời ánh mai" Ta có thể đặt lệnh bài như sau: a) Tìm các từ ngữ chỉ sự vật trong các khổ thơ sau: b) Tím các từ ngữ chỉ vật mà con thường gặp hàng ngày (đồ dùng học sinh). Để học sinh sáng tạo kể tên các sự vật thường gặp. * Ví dụ 2: Bài tập 2: (Trang 117). Lệnh của bài: Tìm các từ chỉ đặc điểm trong những câu thơ sau: Ta có thể thay lệnh: Tìm các từ chỉ đặc điểm của sự vật trong những câu thơ sau. Khi dạy các phân môn thuộc bộ môn Tiếng Việt người giáo viên cần lồng ghép giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt với nhau. Như khi dạy bài Tập đọc: "Hai bàn tay em" SGK Tiếng Việt 3 tập I (Trang 7). Trong bài này có rất nhiều hình ảnh tu từ so sánh giáo viên cần nhấn mạnh để gây hứng thú cho tiết tiếp theo của môn: "Luyện từ và câu". Để học sinh học tốt môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn: "Luyện từ và câu" dạng bài tu từ so sánh học sinh cần nắm và làm theo các yêu cầu sau: Đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu cầu của bài sau đó mới làm bài. Muốn học sinh của mình có một kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh vững vàng đòi hỏi người giáo viên phải có nghệ thuật khi hướng dẫn bài mới như: a) Mô hình 1: - So sánh: Sự vật - Sự vật. Mô hình này có các dạng sau:                       A như B.                       A là B.                       A chẳng bằng B.                       A x B; x triệt tiêu (Từ chỉ quan hệ so sánh triệt tiêu). * Ví dụ: Tìm sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn dưới đây:                                "Hai bàn tay em                                Như hoa đầu cành"                                                             (Huy Cận) "Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch"                                                                                (Vũ Tú Nam)                                "Cánh diều như dấu á                                Ai vừa tung lên trời"                                                             (Lương Vĩnh Phúc)                                "Ơ cái dấu hỏi                                Trông ngộ ngộ ghê                                Như vành tai nhỏ                                Hỏi rồi lắng nghe"                                                             (Phạm Như Hà) Để làm tốt bài tập này học sinh phải nắm chắc các từ chỉ sự vật, từ đó học sinh sẽ tìm được sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên là: + "Hai bàn tay em" so sánh với "hoa đầu cành" + "Mặt biển" so sánh với "tấm thảm khổng lồ". + "Cánh diều" so sánh với "dấu á" + "Dấu hỏi" so sánh với "vành tai nhỏ". Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao "Hai bàn tay em" được so sánh với "Hoa đầu cành" hay vì sao nói "Mặt biển" như "tấm thảm khổng lồ"? Lúc đó giáo viên phải hướng  học sinh tìm xem các sự vật so sánh này đều có điểm nào giống nhau, chẳng hạn: + Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa. + Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp. + Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á. (Giáo viên có thể vẽ lên bảng "Cánh diều" và "Dấu á") + Dấu hỏi cong cong, nở rộng ở hai phía trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai. (Giáo viên có thể cho học sinh nhìn vào vành tai bạn). b) Mô hình 2: - So sánh: Sự vật - Con người. Dạng cuả mô hình so sánh này là:             A như B:     + A có thể là con người.                                 + B sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh. * Ví dụ: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu dưới đây:                                "Trẻ em như búp trên cành                                Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan"                                                                                (Hồ Chí Minh)                                "Bà như quả ngọt chín rồi                                Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng".                                                                                (Võ Thanh An) Với dạng bài tập này học sinh sẽ dễ dàng tìm sự vật so sánh với con người nhưng các em chưa giải thích được "Vì sao?". Chính vì thế điều đó giáo viên giúp học sinh tìm được đặc điểm chung của sự vật và con người, chẳng hạn: "Trẻ em" giống như "búp trên cành". Vì đều là những sự vật còn tươi non đang phát triển đầy sức sống non tơ, chứa chan niềm hy vọng. "Bà" sống đã lâu, tuổi đã cao giống như "quả ngọt chín rồi" đều phát triển đến độ già giặn có giá trị cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu và trân trọng. c) Mô hình 3: - So sánh: Hoạt động - Hoạt động. Mô hình này có dạng như sau:             + A x B.             + A như B. * Ví dụ: Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau: +                   "Con trâu đen lông mượt                       Cái sừng nó vênh vênh                       Nó cao lớn lênh khênh                       Chân đi như đạp đất"                                                             (Trần Đăng Khoa) +                   "Cau cao, cao mãi                       Tàu vươn giữa trời                       Như tay ai vẫy                       Hứng làn mưa rơi"                                                             (Ngô Viết Dinh) Dạng bài này giáo viên giúp học sinh nắm chắc được từ chỉ hoạt động, từ đó học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn: + Hoạt động "đi" so sánh với hoạt động "đập đất" qua từ "như". d) Mô hình 4: - So sánh: Âm thanh - Âm thanh: Mô hình này có dạng sau:             A như B:     + A là âm thanh thứ 1.                                 + B là âm thanh thứ 2. * Ví dụ: Tìm những âm thanh được so sánh với nhau trong mỗi câu thơ văn dưới đây: Với dạng bài tập này giáo viên giúp học sinh nhận biết được âm thanh thứ nhất và âm thanh thứ hai được so sánh với nhau qua từ "như". Chẳng hạn: +                             "Côn Sơn suối chảy rì rầm                                Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai"                                                                       (Nguyễn Trãi) "Tiếng suối" được so sánh với "Tiếng đàn cầm" qua từ "như". Ngoài các mô hình so sánh trên học sinh còn được làm quen với kiểu so sánh: Ngang bằng và hơn kém. Chẳng hạn: + Trong câu:           "Cháu khỏe hơn ông nhiều!"                                                                       (Phạm Cúc) Kiểu so sánh hơn kém: + Trong câu:           "Ông là buổi trời chiều                                Cháu là ngày rạng sáng"                                                                       (Phạm Cúc) Kiểu so sánh ngang bằng: + Trong câu:           "Trăng khuya trăng sáng hơn đèn"                                                                       (Trần Đăng Khoa) Kiểu so sánh hơn kém: + Trong câu:           "Những ngôi sao thức ngoài kia                                Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con"                                                                       (Trần Quốc Minh) Kiểu so sánh hơn kém: IV. Kết quả nghiên cứu Khi hướng dẫn học sinh tìm biện pháp tu từ so sánh ở các ví dụ trên và tôi đã khảo sát học sinh lớp 3A năm học 20... - 20... đạt kết quả như sau: Số học sinh đạt yêu cầu về nhận xét tu từ so sánh Số học sinh chưa có kỹ năng nhận                       17/24 ≈ 70,8%                           7/24 ≈  29,2%       PHẦN 3 – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. Kết luận Qua kinh nghiệm rèn kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3. Bản thân tôi thấy rằng cần hướng và rèn cho học sinh những kỹ năng sau: - Học sinh tự củng cố vốn kiến thức của mình thông qua đọc nhiều sách báo phù hợp với lứa tuổi, xem băng hình, quan sát tranh... - Cho học sinh giao lưu trực tiếp với các bạn trong lớp, trong trường sau mỗi bài học: "Luyện từ và câu" dạng này để học sinh khắc sâu kiến thức. - Khi làm bài tập yêu cầu học sinh đọc kỹ đàu bài, xác định đúng yêu cầu của bài, phân biệt được chúng thuộc kiểu bài so sánh dạng nào rồi mới bắt tay vào làm bài. Qua quá trình suy nghĩ và tìm tòi tôi đã tìm thấy một số biện pháp như đã nêu ở trên, để rèn kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3. Qua việc áp dụng những biện pháp trên tôi thấy kỹ năng nhận biết của học sinh lớp 3A tôi dạy đã được nâng lên. Tuy nhiên đó cũng có thể là những biện pháp tối ưu nhất. Tôi chỉ mạnh dạn nêu lên để bạn bè, anh chị em giáo viên cùng tham khảo. Rất mong được sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! II. Kiến nghị …………., ngày … tháng … năm 20… Người viết

File đính kèm:

  • docSKKN Lop 3_001.doc
Giáo án liên quan