Đi học là một bước ngoặt lớn trong đời trẻ. Năm đầu tiên cắp sách đến trường, trẻ vô cùng bỡ ngỡ với việc chuyển hoạt động chủ đạo từ vui chơi sang học tập. Người ta thường nói: Một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc, học viết. Bởi vậy vấn đề rèn luyện chữ viết cho học sinh Tiều học là vô cùng quan trọng và cấp thiết bởi chữ viết của học sinh, đặc biệt là của học sinh đầu cấp Tiểu học đặt nền móng cơ bản cho toàn bộ quá trình học tập,
15 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1311 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng dạy học môn Tập viết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ào cạnh bàn, đầu hơi cúi, mắt cách trang giấy khoảng 25 – 30 cm”. Tư thế ngồi viết không nay ngắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chữ viết. Ngồi nghiêng vẹo sẽ kéo theo chữ viết không thẳng, bị lệch dòng. Không những thế còn có hại cho sức khoẻ: sẽ bị cận nếu chúi sát vở, vẹo cột sống, gù lưng, phổi vị ảnh hưởng... nếu ngồi viết không ngay ngắn. Trước mỗi giờ viết bài, đặc biệt là giờ học Tập viết tôi thường yêu cầu các em nhắc lại tư thế ngồi viết câu hỏi: “Muốn viết đẹp con phải ngồi thế nào?”. Dần dần, các em sẽ có thói quen ngồi đúng tư thế.
Một việc hết sức quan trọng giúp cho việc viết chữ đẹp là cách cầm bút và cách đặt vở trên bàn. Điều này các em được tôi hướng dẫn kỹ càng: “Khi viết, các con cần cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón trỏ, ngón cái, ngón giữa) của bàn tay phải, Đầu ngón trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón giữa phía bên trái, phía bên phải của đầu bút tựa vào đầu đốt giữa ngón tay giữa”. Tôi cũng lưu ý các em cầm bút vừa phải. Vì nếu cầm bút sát ngòi hoặc quá xa ngòi bút thì việc điều khiển bút khi viết sẽ khó khăn, làm cho chữ xấu mà mực dễ bị giây ra tay, ra vở. Còn vở viết khi viết bài, tôi cũng luôn hỏi lại học sinh cầm bút và cách đặt vở. Những yếu tố tưởng chừng không quan trọng nhưng thực chất đã góp phần tích cực vào việc rèn chữ cho học sinh.
2.4. Rèn kỹ năng viết cho học sinh:
Trong quá trình dạy Tập viết và trong các hướng dẫn học, tôi sẽ củng cố, nhắc lại và khác sâu cho các em nhớ lại cách viết tử những ngày đầu các em cầm bút ở lớp 1.
a) Trước tiên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nhó các đường kẻ trong bảng con và trong vở Tập viết. Việc này góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng dạy viết chữ.
* Bảng con:
1. Đường kẻ ngang trên 3. Đường kẻ ngang dưới
2. Đường kẻ ngang giữa 4. Đường kẻ ngang phía dưới
Có những chữ cái cao hơn một đơn vị được xác định bằng đường kẻ ngang trên và đường kẻ ngang dưới: a, o, c...
Có những chữ cái cao 2 đơn vị rưỡi được xác định bằng đường kẻ ngang trên, đường kẻ ngang giữa và đườn kẻ ngang dưới: b, g, h...
* Vở Tập viết (vở in và vở ô li):
Vở tập viết của các em đã có sẵn đường kẻ, giáo viên cần hướng dẫn để các em nắm được một số quy ước về cách gọi.
b) Giúp học sinh củng cố, nhớ lại và nắm chắc các nét cơ bản:
Từ những nét cơ bản này, các chữ cái sẽ được tạo thành. Với một số kinh nghiệm bản thân cùng với sự trao đổi, học hỏi đồng nghiệp, tôi nhận thấy: nếu học sinh viết các nét cơ bản không đúng, không đẹp thì việc viết xấu, viết sai là điều không tránh khỏi. Vì vậy tôi sẽ củng cố lại cho các em cách viết các nét cơ bản. Chú ý điểm đặt bút, dừng bút.
Chẳng hạn với nét khuyến xuôi (), nét khuyết ngược (), học sinh không rèn viết ngay từ đầu thì dễ viết lệch, xấu sẽ dẫn đến những chữ được tạo bởi 2 nét đó như: h, k, g, y... cũng không được đẹp và đây cũng là 2 nét khó mà học sinh thường lúng túng khi viết.
Chú ý: nét khuyết phải tròn, thon đều, không to quá, cũng không nhỏ quá hoặc không bị vuông đầu và đặc biệt điểm gặp nhau của hai nét phải ở đường kẻ 2 từ dưới lên (với nét khuyết xuôi), đường kẻ 1 (với nét khuyết ngược).
Không chỉ vậy, muốn học sinh viết đẹp thì với những chữ khó viết, tôi thường cho các em luyện viết lên bảng nhiều, đến khi nào học sinh viết tương đối đồng đều thì lúc đó mới viết vào vở. Những học sinh nào viết bảng xấu, chậm, tôi thường xuống tận nơi cầm tay uốn nắn các em viết đúng.
c) Phân loại chữ cái theo nhóm:
Để thuận tiện cho công việc giảng dạy và cho học sinh dễ dàng hơn trong Tập viết, tôi đã phân loại chữ cái theo các nhóm sau:
- Nhóm 1 gồm các chữ: U, Ư, X, Y, N, M
- Nhóm 2 gồm các chữ: A, Ă, Â, M, N
- Nhóm 3 gồm các chữ: P, R, B, D, Đ
- Nhóm 4 gồm các chữ: I, K, H, V
- Nhóm 5 gồm các chữ: C, E, Ê, G, L, S, T
- Nhóm 6 gồm các chữ: O, Ô, Ơ, A, Q, Q
Việc chia nhóm như vậy sẽ giúp học sinh so sánh được cách viết các chữ, tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau. Từ đó, học sinh nắm chắc được cách viết và các em sẽ viết được chuẩn hơn, đẹp hơn. Vì vậy, tôi cũng cho các em luyện thêm cách viết theo nhóm trong các tiết hướng dẫn học.
d) Hướng dẫn viết nối nét:
Khi học sinh đã viết các con chữ đúng mẫu, thì việc hướng dẫn nối chữ cũng rất quan trọng. Học sinh biết cách nối chữ thì bài viết mới rõ ràng đều và đẹp được hơn nữa mới đảm bảo được tốc độ viết ở những lớp trên.
Tôi hướng dẫn kỹ học sinh cách điều tiết điểm DB của chữ đứng trước sao cho hợp lý. Ví dụ chữ “uê”. Cần điều tiết điểm bắt đầu của chữ ê đi sau thấp xuống một chút và kéo dài, nét kết thúc của chữ cái đứng trước lên cao một chút.
- Ngoài ra giáo viên phải lưu tâm nhắc nhở học sinh viết ... chữ bằng một con chữ không tưởng tượng. Viết sát quá hoặc xa quá đều không được.
- Tầm quan trọng của viết dấu thanh:
Dấu thanh không được viết to quá, bé quá và phải viết đúng vị trí. Thực tế trong những năm dạy Tiếng Việt lớp 2 tôi thấy học sinh thường mắc tình trạng các dấu thanh viết cao quá, ảnh hưởng lớn đến chất lượng chữ viết. Tôi luôn nhắc học sinh dấu viết vừa phải và gần chữ nhưng không được dính vào chữ.
Và đặc biệt lưu tâm đến những em hay viết dấu sai vị trí thường gọi lên bảng viết nhiều lần để các bạn nhận xét
* Với học sinh Tiều học, nhất là học sinh đầu cấp, thường hiếu động, thiếu kiên trì nên nhiều em không tự giác khi viết bài. Các em muốn viết thật nhanh chóng cho hết bài để chơi. Để khắc phục điều này, tôi có quy định với học sinh: viết từng dòng theo hiệu lệnh của cô. Nhờ vậy, tránh được tình trạng viết nhanh, viết ẩu trong quá trình viết của học sinh. Đặc biệt, với những em viết đẹp, có nhiều cố gắng thì tôi sẽ cho điểm động viên, tuyên dương trước lớp để các em khác nhìn vào noi theo.
* Với học sinh, việc củng cố bài của giáo viên cũng góp phần rất quan trọng để tạo hứng thú cho học sinh, Giáo viên có tiến hành theo cách sau để thu hút học sinh đến với các giờ Tập viết theo:
- Cho học sinh nhận xét bài viết của bạn và bài viết của chính mình để các em nhận ra những điểm được và chưa được để sửa chữa.
- Cho học sinh luyện viết lại những chữ chưa đạt yêu cầu.
- Tổ chức một số trò chơi để tánh căng thẳng, mệt mỏi cho học sinh: Thi viết chữ đẹp, Thi viết nhanh...
- Sau khi học sinh viết xong bài, giáo viên cần chấm điểm ngay một số vở, sửa lỗi sai cho học sinh: tuyên dương những bài viết tốt.
* Với những bài viết chưa đẹp, viết ẩu thì ngoài việc kèm thêm ở lớp, tôi còn trực tiếp gặp gỡ phụ huynh của em đó trao đổi và cùng ra hướng giải quyết hay thống nhất cách dạy nhằm giúp học sinh tiến bộ hơn.
Với việc làm này cùng với sự chỉ bảo của giáo viên ở trên lớp mà những em viết xấu, viết ẩu ở lớp tôi hiện nay cũng tiến bộ nhiều.
PHẦN V:
KẾT QUẢ
Do nắm được vai trò quan trọng của môn Tập viết nên những việc làm trên đã được tôi tiến hành một cách thường xuyên trong các giờ Tập viết. Nếu so với đầu năm, nhiều em còn viết ẩu, viết xấu, thậm chí còn lệch dòng kẻ, sai cỡ chữ thì chữ viết của học sinh lớp tôi tương đối đều, bài viết sạch đẹp: tốc độ viết của học sinh đã nhanh hơn, tỉ lệ viết đúng, viết đẹp của học sinh cũng nâng lên.
Cụ thể là:
- Nhiều em viết chữ đúng chuẩn, đẹp, sạch.
- Một số em thời gian đầu còn bị điểm thấp nhưng giờ đã được điểm 7 – 8 môn học này.
- Chữ viết của các em tương đối đều, thẳng hàng, đúng mẫu chứ quy định và đạt được tốc độ yêu cầu đối với học sinh lớp 2 theo từng giai đoạn.
- Vở viết của học sinh sạch và đẹp, không nhàu nát, bài viết cẩn thận.
- Lớp đạt lớp Vở sạch chữ đẹp.
PHẦN VI
BÀI HỌC KINH NGHIỆM – KẾT LUẬN - ĐỀ XUẤT
1. Bài học kinh nghiệm:
Đối với mỗi giáo viên:
- Đòi hỏi đầu tiên theo tôi đó là sự tận tâm, nhiệt tình, yêu thương con trẻ. Trong mỗi giờ dạy, người giáo viên phải tạo được sự say mê cho bản thân mình cũng như hứng thú cho học sinh.
- Thường xuyên rèn luyện để có chữ viết mẫu chuẩn đẹp (vì tư duy của trẻ chủ yếu là trực quan và rất thích bắt chước theo cô giáo).
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học một cách cẩn thận, có chọn lọc và sáng tạo.
- Luôn tạo hứng thú cho các em trong các giờ học bằng nhiều hình thức như: sưu tầm tranh ảnh, chữ mẫu đẹp để phục bài học.
- Tuyên dương khen thưởng kịp thời những em có nhiều cố gắng, có tiến bộ trong việc “Rèn chữ - Giữ vở”.
2. Kết luận:
Trên đây là một số suy nghĩ và những biện pháp mà tôi đã áp dụng trong việc rèn chữ cho học sinh lớp 2.
Tôi tin rằng, nếu mỗi giáo viên luôn có ý thức rèn luyện và tận tâm dạy bảo thì chắc chắn các em sẽ có những bài viết đẹp, sạch sẽ. Sau này, các em sẽ trở thành những con người có tính cẩn thận, kiên trì, làm việc có khoa học, xứng đáng là những chủ nhân tương lai của đất nước.
3. Đề xuất ý kiến:
Để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, tôi xin có một vài đề xuất sau:
- Nên trang bị cho mỗi giáo viên bộ chữ hoa mẫu theo kiểu lật từng trng hiện ra từng nét chữ để giúp học sinh có hình ảnh cụ thể, sinh động về chữ mẫu cần viết.
- Thường xưyên tổ chức các cuộc thi “Viết chữ đẹp” cho học sinh va giáo viên.
-Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn để học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp, các trường có phong trào “Vở sạch – Chữ đẹp” tiêu biểu.
Trên đây là một vài ý kiến tôi mạnh dạn đưa ra. Tôi rất mong có sự bổ sung, góp ý kiến Ban giám hiệu và các đồng chí giáo viên trong khối, trong trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Kim Sơn, ngày 02 tháng 05 năm 2008
Người viết
Trần Thị Thu
PHẦN V
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dạy và học Tập viết ở Tiểu học
(Trần Mạnh Cường – Phan Quang Thân – Nguyễn Hữu Cao – NXB Giáo dục)
2. Yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng các lớp 1, 2, 3, 4
(Bộ Giáo dục và Đào tạo)
3. Dạy Tập viết ở Tiểu học
(Lê A - Đỗ Xuân Thảo – Trịnh Đức Minh – NXB Giáo dục)
4. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học.
(Lê Hữu Tỉnh – Trần Mạnh Hưởng – NXB Giáo dục)
5. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2
6. Thiết kế bài giảng Tiếng Việt lớp 2.
7.Phạm Văn Đồng “Dạy nét chữ nết người”
(Báo Tiền Phong số 1760. Ra ngày 18 – 1 - 1968)
MỤC LỤC
Phần I: Lý do chọn đề tài
Phần II: Phạm vi đề tài
Phần III: Thuận lợi và khó khăn
Phần IV: Biện pháp thực hiện
Phần V: Kết quả
Phần VI: Bài học kinh nghiệm – Kết luận – Đề xuất
Phần V: Tài liệu tham khảo
File đính kèm:
- lop 2 tap viet.doc