Cách giải quyết vấn đề khó môn Tiếng việt lớp 1, 2, 3

 KHỐI LỚP 1

 HỌC VẦN

1. Khi dạy phần vần, một số HS thường khó đọc và hay đọc sai dẫn tới viết sai.

VD: Bài 34: Vần ưi

 Bài 42: Vần ưu, ươu

 Nguyên nhân: Nguyên nhân của thực trạng này phần lớn là do phương ngữ.

 * Hướng giải quyết:

 - Khi dạy GV cần phát âm mẫu chuẩn, chính xác, to và rõ.

 - Tăng cường luyện đọc cá nhân cho HS, trực tiếp sửa sai cho từng em.

 - Đưa ra vần khác để HS phát âm và so sánh:

VD : ưu so sánh với iu

 ươu so sánh với iêu

 

doc9 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1117 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cách giải quyết vấn đề khó môn Tiếng việt lớp 1, 2, 3, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải thường xuyên lưu ý các em: Trong kiểu câu Ai làm gì? và Ai là gì? thì “ Ai ” là từ chỉ sự vật. ở kiểu câu Ai là gì? thì sau từ “là” phải là từ chỉ sự vật. ở kiểu câu Ai làm gì? thì trả lời cho bộ phận “làm gì” phải là từ chỉ hoạt động. - Cần nhắc nhở HS không nên đặt nhưng câu thiếu chính xác về nghĩa như: Mẹ em làm giáo viên. Bố em làm nông dân. Chính tả 1. HS khó phân biệt d/gi * Giải quyết: - Việc lựa chọn quy tắc viết chính tả là một vấn đề khó khăn. Vì thế GV hướng dẫn HS làm bài qua các bài tập cụ thể. Ngoài ra cần ra thêm những bài tập có những tiếng, từ HS dễ viết sai để các em quen dần cách viết đúng. - GV cũng cần biết thêm một số thuật nhớ và mẹo chính tả để giúp HS phân biệt tốt hơn giữa d/ gi. + Thuật nhớ lấy âm đệm làm mốc: Về kết hợp âm, gi không đứng trước âm đệm, tức không đứng trước các vần bắt đầu bằng oa, oă, uâ, uy, uyê… d có thể đứng trước những âm đệm. VD: Doạ dẫm, doạng chân, doanh nghiệp, duy trì, duyên nợ, duyệt binh… + Thuật nhớ dựa vào từ Hán Việt Các chữ Hán Việt mang dấu ngã và dấu nặng đều viết d. VD: Dã man, dạ hội, đồng dạng, diễn viên, hấp dẫn, dĩ nhiên, dũng cảm… Các chữ Hán Việt mang dấu sắc và dấu hỏi đều viết gi. VD: Giả định, giải thích, giảng dạy, giám sát, tam giác, biên giới, giá cả. + Thuật nhớ dựa vào cách viết từ láy. Về mặt láy âm, d và gi không láy với nhau, chúng chỉ “ điệp” tức lặp lại chính mình. Từ điệp âm đầu d: VD: dai dẳng, dại dột, dãi dầu, dầm dề, dở dang, dõng dạc, dông dài… Từ điệp âm đầu gi: VD: giàn giụa, giãy giụa, giặc giã, giấu giếm, giòn giã, gióng giả, giục giã… ( Lưu ý: Những kiến thức này Giáo viên cần phải biết chứ không cung cấp cho học sinh, mà trong quá trình giảng dạy giáo viên sử dụng nó để hướng dẫn học sinh giải quyết các bài tập cụ thể. VD: Khi HS viết giọa giáo viên nêu gi không thể kết hợp với vần oa mà phải viết là dọa) - Trong quá trình giảng dạy GV phải tham khảo thêm từ điển chính tả khi hướng dẫn HS phân biệt d/gi đối với từng bài tập cụ thể. Kể chuyện 3. Khi kể chuyện, HS còn thiên về đọc mà chưa kể được bằng lời của mình. * Giải quyết: -Trước hết GV phải cần giúp các em nhớ truyện, thuộc truyện thông qua tranh minh hoạ hoặc những lời gợi ý. Tránh việc yêu cầu HS đọc thuộc truyện vì đây là những văn bản các em đã được học qua giờ tập đọc. - Trong những giờ kể chuyện đầu tiên, GV có thể kể một đoạn hoặc mời một HS khá, giỏi kể làm mẫu để cả lớp hiểu rằng kể bằng lời của mình là kể một cách thoải mái, tự nhiên, không cố nhớ từng câu chữ nội dung truyện đã được học trong tiết tập đọc. - GV phải có biện pháp tạo bầu không khí thân mật, tin cậy, khéo động viên khuyến khích để HS kể chuyện tự nhiên, thoải mái. Kết hợp lời kể với nét mặt,cử chỉ, giọng điệu. Để làm được điều này GV phải tế nhị khi hướng dẫn HS kể chuyện, tạo sự tin tưởng cho các em Cụ thể: + Nếu có một HS đang kể bỗng lúng túng vì quên chuyện, GV có thể nhắc nhẹ nhàng. + Nếu có em kể thiếu chính xác không nên ngắt lời mà nhận xét sau khi các em đã kể xong. + Hướng dẫn HS khi nhận xét lời kể của bạn nên tìm cái đáng học, đáng khen chứ không nên chỉ chăm chăm chê bạn. + Khen ngợi đúng và kịp thời, khẳng định thành công và tiến bộ của từng HS Khối 3 Tập làm văn 1. Tổ chức cuộc họp khó thành công vì giao tiếp của các em còn kém. * Hướng giải quyết.: Kiểu bài tổ chức cuộc họp là kiểu bài mới . Nó nhằm tăng tính thực hành của tập làm văn, gắn việc học với hoạt động thực tiễn. Kiểu bài này được học ở tuần 5, tuần 7, tuần 31. - Để học sinh hiểu rõ trình tự các việc diễn ra trong một cuộc họp, khi dạy tiết tập tổ chức cuộc họp đầu tiên, giáo viên cần liên hệ với bài tập đọc: “ Cuộc họp của chữ viết”( Tiếng Việt 3/ tập 1- Tuần 5- Trang 44) để học sinh có ý niệm về một cuộc họp. Mỗi cuộc họp bao giờ cũng có: + Phần mở đầu( nêu mục đích hoặc lý do họp). + Phần chính( nghe báo cáo và thảo luận về tình hình, nguyên nhân, cách giải –quyết) + Phần kết thúc cuộc họp ( Kết luận, phân công công việc) Các cuộc họp tổ nhóm vẫn có 3 phần trên nhưng thường diễn ra một cách thân mật, ngắn gọn hơn các cuộc họp khác. Theo yêu cầu của tiết học, sau khi các cuộc họp tổ hoặc nhóm diễn ra, mỗi tổ, nhóm phải cử một đại diện trình bày kết quả họp trước lớp. Người đại diện có thể là tổ trưởng, nhóm trưởng hoặc bất cứ ai. Để giúp học sinh tự tin hơn giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách ghi chép nội dung cuộc họp để có tư liệu báo cáo. Nội dung báo cáo nên tập trung vào các ý kiến thảo luận, các kết luận và sự phân công của tổ trưởng, nhóm trưởng. - Ngay từ đầu năm học, qua các tiết sinh hoạt lớp , sinh hoạt Đội, Sao....giáo viên cần kèm cặp, hướng dẫn các em biết cách tổ chức họp theo yêu cầu nhiệm vụ cụ thể để trở thành thói quen sinh hoạt mạnh dạn và tự tin hơn trong giao tiếp. 2. Bài: Kể về lễ hội ( tuần 25) Khó vì: - Thực tế ở địa phương rất ít lễ hội. - Học sinh không được trực tiếp xem. - Học sinh không hiểu được thế nào là lễ hội. * Hướng giải quyết. - Giáo viên cần khai thác tối đa các tư liệu thuộc chủ điểm: Lễ hội. Đó là các bài tập đọc: Hội vật, Hội đua voi ở Tây Nguyên, sự tích lễ hội Chử Đồng Tử, đi hội Chùa Hương… Các tiết LTVC tuần 25, 26. Tiết Chính tả tuần 26. - Cung cấp thêm vốn từ cho học sinh và giúp học sinh hiểu biết hơn về phần lễ, phần hội trong Lễ hội bằng cách sưu tầm thêm tranh ảnh. Những nơi thuận lợi, có điều kiện nên cho các em xem các đĩa hình về một lễ hội nào đó hoặc cho các em trực tiếp tham gia để các em kể tốt hơn trong tiết Tập làm văn. - Hướng dẫn các em làm tốt BT1, BT2 trong tiết LTVC tuần 26 để các em hiểu kỹ hơn về Lễ, hội, lễ hội. Sau khi hoàn thành Bài tập 1 học sinh sẽ hiểu rằng: Lễ: Là các nghi thức nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm một sự kiện có ý nghĩa. Hội: Là cuộc vui tổ chức cho đông người dự theo phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt. Lễ hội: Là hoạt động tập thể có cả phần lễ và phần hội. Qua bài tập 2 học sinh được cung cấp thêm tên một số lễ hội: Lễ hội Đền Hùng, Đền Gióng, Chùa Hương, Tháp Bà, núi Bà, chùa Keo, Phủ Giấy, Kiếp Bạc, Cổ Loa, đền Quả Sơn.... Tên một số hội: Hội vật, bơi trải, đua thuyền, chọi trâu, đua voi, đua ngựa, chọi gà, thả diều, hội Lim... Tên một số hoạt động trong lễ hội và hội: Cúng Phật, lễ Phật, thắp hương, tưởng niệm, đua thuyền, đua ngựa, đua mô tô, đua xe đạp, kéo co, ném còn, cướp cờ, đánh đu, thả diều, chơi cờ tướng... ( Lưu ý: Một số lễ hội nhiều khi cũng được gọi tắt là hội). Tập đọc 1. Bài Tập đọc- kể chuyện khá dài, thời gian kể chuyện quá ít, kỹ năng kể của học sinh còn hạn chế chủ yếu là đọc thuộc. * Hướng giải quyết. - Trước hết giáo viên phải hiểu rằng: Học sinh lớp 3 cũng rèn kỹ năng kể chuyện bằng cách kể lại câu chuyện vừa học trong bài tập đọc đầu tuần như lớp 2. Có điều thời gian dành cho học sinh thực hành kể chuyện chỉ khoảng 20 phút. Lý do giảm thời gian kể chuyện là do môn Tiếng Việt lớp 3 chỉ còn 9 tiết/ tuần ( giảm 1 tiết so với lớp 2) và do học sinh lớp 3 tốc độ đọc nhanh hơn, nhận thức tốt hơn học sinh lớp 2. Vì vậy với thời gian 0,5 tiết giáo viên chỉ tập trung rèn kỹ năng kể chuyện mà không mất thời gian vào các việc như: Kiểm tra bài cũ, giáo viên kể cho học sinh nghe, tìm hiểu nội dung ý nghĩa câu chuyện vì những việc này đã được thực hiện trong 1,5 tiết tập đọc. Vì đây chỉ là một hoạt động tiếp nối sau giờ Tập đọc. - Hướng dẫn các em thực hiện tốt các bài tập trong tiết kể chuyện để tạo điều kiện cho học sinh tập trung tư tưởng, đạt hiệu quả cao trong rèn luyện. - Khi kể chỉ yêu cầu học sinh dựa vào cốt truyện chứ không bắt buộc thuộc từng câu, từ như bài tập đọc. Nhưng giáo viên cũng cần hiểu rằng: Nếu học sinh do luyện đọc nhiều mà thuộc truyện, kể chính xác từng câu, chữ theo văn bản truyện và kể sinh động như sống với câu chuyện ( không phải là đọc thuộc lòng văn bản) thì giáo viên nên đặc biệt khen ngợi học sinh đó. Bản chất của kể chuyện sáng tạo không phải là kể khác nguyên văn mà là kể tự nhiên như sống với câu chuyện, kể bằng giọng điệu ngôn ngữ của mình, thể hiện được cảm nhận của mình về câu chuyện đó. Chỉ trong trường hợp học sinh kể như đọc văn bản, vừa kể vừa cố nhớ lại một cách máy móc từng câu từng chữ trong văn bản thì giáo viên mới nhận xét kể như thế là chưa đạt yêu cầu vì đó là cố gắng đọc thuộc, chứ không phải kể. Luyện từ và câu 1, Tìm 3 cách nhân hoá, học sinh khó tìm cách thứ 2 và thứ 3. * Hướng giải quyết: - Ba cách nhân hoá được học ở bài luyện từ và câu tuần 21 (Sách Tiếng việt 3 – Tập 2 – Trang 26). Cụ thể ở bài tập 2. Trong bài thơ trên, những sự vật nào được nhân hoá, chúng được nhân hoá bằng những cách nào? ở bài này có 3 gợi ý: a. Các sự vật được gọi bằng gì? b. Các sự vật được tả bằng những từ ngữ nào ? c. Trong câu “Xuống đi nào mưa ơi.” Tác giả nói với mưa thân mật như thế nào? - Giáo viên hướng dẫn học sinh trả lời: a. Các sự vật được gọi bằng ông, chị. b. Các sự vật được tả bằng các từ ngữ : bật lửa, kéo đến, trốn, nóng lòng, chờ đợi, hả hê, uống nước, xuống, vỗ tay, cười. c. Câu “Xuống đi nào, mưa ơi” Tác giả nói với mưa thân mật như với một người bạn. - Học sinh trả lời được 3 gợi ý đó tức là đã chỉ ra 3 cách nhân hoá: + Cách 1: Gọi sự vật bằng từ dùng để gọi người. + Cách 2: Tả sự vật bằng những từ dùng để tả người. + Cách 3: Nói với sự vật thân mật như nói với người. - Khi gặp những bài tập đọc, nếu có hình ảnh nhân hoá thì giáo viên cần gợi ý để học sinh chỉ ra được bài thơ, bài văn đó có sử dụng nghệ thuật nhân hoá. Các em sẽ sử dụng vào việc đặt câu, viết đoạn văn có biện pháp nghệ thuật nhân hoá chứ không nên yêu cầu học sinh tìm các cách nhân hoá có trong bài văn, bài thơ đó. 2. Xác định hình ảnh so sánh có từ so sánh là từ “là”: Trong nhiều trường hợp hình ảnh so sánh có từ “là” thì đồng thời cũng là kiểu câu “ai là gì?” nhưng một số trường hợp câu kiểu “Ai là gì?” lại không phải là hình ảnh so sánh. *Hướng giải quyết: Trong thực tế dạy học, khi gặp yêu cầu tìm hiểu về kiểu câu Ai là gì? hay tìm hiểu về hình ảnh so sánh thì giáo viên dựa vào đó mà giải quyết chứ không được nhầm lẫn hai vấn đề này với nhau.

File đính kèm:

  • docCach giai quyet van de kho mon TV 123.doc
Giáo án liên quan