Các dân tộc ở Hòa Bình

Hoà Bình là một tỉnh miền núi nằm trong vùng Tây Bắc Việt Nam. Phía bắc và tây

bắc giáp tỉnh Phú Thọ và Sơn La, phíađông và đông nam giáp tỉnh Hà Tây và

Hà Nam, phía nam và tây nam giáp tỉnhNinhBình và Thanh Hoá. Vị trí này khiến

Hoà Bình trở thành đầu mối giao thôngquan trọng, nối liền các tỉnh thuộc vùng

Tây Bắc với vùng đồng bằng sông Hồng,Đông Bắc và Bắc Trung Bộ. Hiện nay, tỉnh

Hoà Bìnhcó 11 huyện thị, trongđó có haihuyện vùng cao, còn lại đều là những

huyện thị miền núi.

pdf38 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2176 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các dân tộc ở Hòa Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất, qua cách làm ăn để không ngừng nâng cao đời sống của mình. Trong nông nghiệp, đồng bào các dân tộc thiểu số đã biết kết hợp phương thức canh tác truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền núi là đốt, phát, chọc, tỉa với phương thức canh tác lúa nước như người Kinh ở đồng bằng. Bà con các dân tộc cũng biết sử dụng cày để cày nương thay cho việc sử dụng cuốc, chọc trước kia. Người Thái đã biết trồng nhiều loại rau trước kia người Kinh thường trồng. Trước kia, người Mông và Dao ở Hoà Bình canh tác nương rẫy theo lối “đao canh hoả chủng” (phát đốt gieo trồng) với những giống lúa nương và sắn, ngô, khoai. Chính vì vậy, đất bị xói mòn, bạc màu, người Mông phải sống du cư. Hiện nay, các dân tộc Mông, Dao đã thay đổi tập quán sản xuất từ du canh du cư sang làm ruộng bậc thang và sống định cư như các dân tộc Mường, Kinh và Thái. Số người sống định cư nhưng vẫn làm rẫy du canh chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Trong sinh hoạt văn hóa dân gian, nhiều nếp sinh hoạt văn hóa của các dân tộc đang có sự ảnh hưởng mạnh của người Kinh. Xưa kia, đánh cồng và bộ cồng Mường là một hình thức nghệ thuật và nhạc cụ có một vị trí quan trọng và thường được sử dụng vào những dịp lễ tết đầu năm, các ngày lễ hội, dịp rước dâu, đón khách. Ngày nay, những dịp sử dụng cồng đã ít hơn. Lớp trẻ đang có xu hướng thích hát những bài hát của người Kinh hơn. Chiếc khèn vốn trước kia rất gắn bó với người Mông nay cũng ít được sử dụng, những bài hát dân ca không còn phổ biến bằng những bài hát của người Kinh. Trong ăn uống, nhiều dân tộc đã có những thay đổi trong quan niệm, thậm chí trong cả phong tục tập quán. Người Dao xưa kia không ăn thịt trâu và thịt chó nhưng hiện nay cũng có người đã sử dụng những đồ ăn này. Người Dao cũng đã biết chế biến thịt lợn đủ món như người Kinh. Tuy nhiên, một số món ăn nghi lễ vẫn được giữ lại. Cho đến trước năm 1945, nguồn lương thực đảm bảo cho bữa ăn hàng ngày của người Thái ở Mai Châu vẫn là gạo nếp. Trước kia, họ ăn uống khá đơn giản. Hiện nay, nguồn lương thực ĐỊA CHÍ HOÀ BÌNH142                  được sử dụng có cả gạo nếp, gạo tẻ, ngô... Tuy nhiên, các loại thực phẩm đã được mang vào tận thôn bản ở vùng sâu và vùng xa nên cách chế biến món ăn của người Thái đã đa dạng hơn và nhiều món giống món ăn giống của người Kinh. Trước đây, ruộng nước thường được trồng nhiều lúa nếp dùng làm cây lương thực chính, làm nguyên liệu để nấu rượu cần và làm món cơm lam khá ngon. Hiện nay, người Mường dùng gạo tẻ trong các bữa ăn hàng ngày nên phần lớn các ruộng nước đã trồng lúa tẻ. Về trang phục, xu hướng Kinh hoá đang phổ biến đối với đồng bào các dân tộc thiểu số trong tỉnh. Trong các dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, người Mường có những nét độc đáo trong trang phục còn giữ lại. Tuy nhiên, ngày nay, cách ăn mặc của dân tộc Mường đang bị biến đổi rất mạnh theo hướng Kinh hoá và đô thị hoá. Hiện nay, phụ nữ dân tộc Mường chỉ sử dụng các bộ quần áo truyền thống trong các dịp lễ hội hoặc ngày vui và điều này cũng phổ biến trong tầng lớp người già. Một số thanh niên nam nữ sử dụng hoàn toàn trang phục của người Kinh trong cả ngày lễ hội, cưới xin, tết truyền thống... Mặt khác, cũng không ít đồng bào người Kinh sử dụng các mặt hàng thổ cẩm của người Thái, Mường trong đời sống và coi đó như một cách ăn mặc độc đáo. Trang phục truyền thống của phụ nữ Mông thường có hoa văn thêu cầu kỳ đặc sắc thể hiện sự sáng tạo với các loại hoạ tiết có màu sắc khoẻ khoắn, đơn giản nhưng rất đẹp. Tuy nhiên, hiện nay một số đồng bào Mông có nhiều điều kiện đi lại, giao tiếp với người Kinh nên trong trang phục thường ngày, nhiều người cũng ăn mặc theo kiểu của người Kinh. Ở vùng Sơn La và Lai Châu, văn hoá Thái thể hiện qua trang phục, có sức lan toả và thu hút các dân tộc láng giềng như các nhóm Xinh Mun, Kháng, Khơ Mú. Tuy nhiên, ở Mai Châu (Hoà Bình), văn hoá trang phục của người Thái ở đây chịu ảnh hưởng của văn hoá trang phục Mường. Trong trang trí trang phục, môtíp hoa văn của người Thái cũng gần giống với hoa văn của người Mường như hoa văn động vật, thực vật, hoa văn hình học. Người Thái ở Mai Châu tự nhận là Tày Khao (Thái Trắng) nhưng trang phục của họ không giống như nhóm Thái Trắng ở Lai Châu, Sơn La. Phụ nữ Thái Trắng ở Mai Châu không mặc xửa nọi có hàng cúc bướm bạc mà họ mặc áo ngắn chui đầu (xẻ ở vai hoặc sau lưng) gần giống áo của phụ nữ Mường ở Ngọc Lăïc (Thanh Hoá). Chiếc váy của người Thái Trắng ở Mai Châu là loại váy giống như kiểu váy của phụ nữ Mường, màu chàm, đen, phía trên được nối với một chiếc cạp váy dệt công phu với nhiều màu sắc, nhiều hoạ tiết cầu kỳ hình các con vật và hoa văn. (Chiếc cạp váy này gần giống với chiếc cạp váy của người phụ nữ Mường. Phụ nữ Thái ở Mai Châu thường ngày thì đội khăn trắng, khi có dịp lễ tết mới đội khăn chàm hoặc khăn đen tóc xoã sau lưng trông rất mềm mại duyên dáng. Những chiếc khăn đội đầu màu chàm hoặc màu trắng đều không có hoa văn. Đó là sự khác biệt của phụ nữ Thái ở Hoà Bình với phụ nữ Thái ở các vùng khác của Tây Bắc). Trong văn hoá ở, sự ảnh hưởng giữa người Kinh với các dân tộc thiểu số càng ngày càng rõ nét. Hiện tượng làm nhà theo kiểu nhà của người Kinh ngày càng phổ biến thay thế dần loại nhà truyền thống của các dân tộc miền núi. Trước kia, người Mường ở nhà sàn nhưng hiện nay nhiều hộ gia đình người Mường đã ở nhà trệt như người Kinh. Đặc biệt, ở những nơi giáp ranh với người Việt, loại PHẦN THỨ NHẤT: ĐỊA LÝ 143 nhà trệt đã chiếm ưu thế. Đến đất Hoà Bình ngày nay, người ta không thể phân biệt được đâu là nhà của người Việt hay người Mường qua hình thức kiến trúc của nhà ở. Thực trạng này cũng đang diễn ra đối với các dân tộc thiểu số khác của tỉnh Hoà Bình. Đối với người Thái, nhà cửa ít có sự thay đổi hơn nhưng tại khu vực thị trấn Mai Châu và một số xã giáp ranh, nhiều hộ người Thái đang bỏ nhà sàn làm nhà trệt như nhà của người Việt. Bên cạnh đó, một số gia đình người Kinh lại dựng nhà theo kiểu nhà sàn giống như nhà của các dân tộc Thái, Mường. Bên cạnh xu hướng chịu ảnh hưởng từ người Kinh, nhà cửa của các dân tộc trên địa bàn tỉnh cũng có những ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc. Nhà của người Thái ở Mai Châu là kiểu nhà sàn của người Mường nhưng lại có gầm sàn và vách nhà cao, dốc hơn, tạo dáng thoai thoải như kiểu nhà của người Thái vùng Yên Châu. Về ngôn ngữ, tiếng Việt đang có điều kiện mở rộng và có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tiếng phổ thông là phương tiện giao lưu và không thể thiếu được giữa các địa phương và các dân tộc thiểu số của Hoà Bình. Người Mường không có chữ viết. Khi tiếng Việt được sử dụng rộng rãi đã làm nảy nở văn học viết của người Mường. Trong giao tiếp, đa số người Mường sử dụng được tiếng Việt. Hiện nay, nhiều người Mường không biết sử dụng tiếng Mường nữa mà sử dụng tiếng Việt như ngôn ngữ mẹ đẻ, nhất là những người sinh sống ở khu vực thành thị. Một số khu vực như vùng ven đô, các bản làng ven trục đường giao thông chính và ở khu vực các điểm du lịch, tình trạng cũng tương tự như vậy. Đối với người Thái, tiếng Thái vẫn là ngôn ngữ chủ yếu trong đời sống của họ, nhưng tỷ lệ sử dụng song ngữ cả tiếng Việt và tiếng Thái trong các gia đình Thái ngày càng tăng lên. Người Mông và người Dao có tỷ lệ sử dụng song ngữ kém hơn do giao lưu văn hoá với người Kinh ít hơn. Tình trạng cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng tăng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc mở rộng các quan hệ xã hội. Tại Hoà Bình, hôn nhân hỗn hợp giữa các dân tộc đang có chiều hướng gia tăng. Ngày càng xuất hiện nhiều các gia đình Mường - Việt, Thái - Việt, Tày - Việt. Ngay cả hai nhóm người Mông Hoa (Mông Lềnh) ở Hang Kia và Mông Đen (Mông Clu hay Mông Đu) ở Pà Cò trước kia không cư trú xen kẽ nhau cùng một bản và cũng không có quan hệ hôn nhân với nhau nhưng hiện nay đã có những trường hợp kết hôn với nhau. Thậm chí, một số người Mông ở Hang Kia đã sang cư trú xen kẽ với những người Mông ở Pà Cò. Cũng như đồng bào các dân tộc trong cả nước, mối quan hệ giữa các dân tộc trong tỉnh mang tính chất tích cực. Trong nội bộ các dân tộc có xu hướng đoàn kết và có tự hào về truyền thống của dân tộc mình. Các dân tộc trong tỉnh ngày càng xích lại gần nhau hơn. Tình cảm giữa người Kinh, Mường, Thái, Dao, Mông, Tày... ngày càng được củng cố và phát triển. Sự kết nghĩa thân tình anh em giữa người Thái, Mường, Kinh là biểu hiện cao đẹp của tình thân ái các dân tộc. ĐỊA CHÍ HOÀ BÌNH144

File đính kèm:

  • pdfCac dan toc o Hoa Binh.pdf
Giáo án liên quan