BÀI LÀM
Trong năm học 2013-2014 thực hiện công tác Bồi dưỡng thường xuyên giáon viên, cá nhân tôi đã đăng ký học tập đầy đủ các nội dung bồi dưỡng theo như kế hoạch đã được nhà trường phê duyệt. Tháng 12 năm 2014 tôi nghiên cứu, học tập module th 3 tôi đã tiếp thu và nắm bắt được những kiến thức sau:
1. Đặc điểm của học sinh học kém
Chậm phát triển về mặt tri thức, không đạt được mức yêu cầu của các môn học trong những điều kiện bình thường.
Các mặt khác của sự phát triển nhân cách có thể không khác so với học sinh bình thường như: khó khăn trong tập đọc, khó khăn trong tập viết, khó khăn trong làm toán.
2. Đặc điểm của Học sinh cá biệt
Đối với những học sinh cá biệt luôn luôn có tính hiếu động, thích tìm tòi và luôn gây sự chú ý cho người khác ở bất kỳ nơi nào, thời điểm nào.
Trước hết chúng ta nên nói đến tính cách của trẻ là sự kết hợp độc đáo giữa đặc điểm tâm sinh lý của trẻ với điều kiện hoàn cảnh sống nhất định.
Biểu hiện của trẻ là nhanh nhẹn, hoạt bát cùng với sự nghịch ngợm, bất ổn định kèm theo, bên cạnh đó học tập có thể là học yếu hoặc trung bình, vì các em đó trong lớp ít chú ý hoặc thậm chí không chú ý khi cô giáo giảng bài, luôn quậy phá các bạn ngồi bên cạnh, gây mất trật tự trong lớp.
Biểu hiện về mặt thái độ của trẻ với chung quanh và bản thân, những đứa trẻ hiếu động này thuộc kiểu thần kinh mạnh, cân bằng và linh hoạt. Biểu hiện của trẻ là ham hoạt động, ham hiểu biết, linh hoạt, thường vui vẻ, vô tư, cảm xúc của trẻ bất ổn định, rung cảm nhưng không sâu, nhanh nhớ, mau quên. Biểu hiện rõ nét nhất của đặc tính này là bất cứ điều gì hấp dẫn, thích thú vừa sức thì các em sẽ làm ngay, tập trung chú ý rất tích cực, càng trong học tập thì đòi hỏi phải kiên trì, chịu khó động não để làm bài, chiếm lĩnh kiến thức thì
5 trang |
Chia sẻ: thiennga98 | Lượt xem: 684 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài thu hoạch công tác bồi dưỡng thường xuyên giáo viên - Năm học 2013 - 2014 - Lương Thị Hà, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ặt này, mặt khác kể cả những người có khuyết tật. Cần có điều kiện thích ứng để năng lực được bộc lộ và hoàn thiện. Cho nên năng lực là những đặc điểm tâm lý cá biệt ở mỗi người tạo thành chiều sâu cường độ lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo để đáp ứng yêu cầu và hoàn thành xuất sắc một hoạt động nhất định.
Học sinh giỏi là học sinh chứng minh được trí tuệ ở trình độ cao và có khả năng sáng tạo, thể hiện một động cơ học tập mãnh liệt và đạt xuất sắc trong lĩnh vực lý thuyết khoa học; người cần một sự giáo dục đặc biệt và sự phục vụ đặc biệt để đạt được trình độ tương ứng với năng lực của người đó”. Đó là những học sinh có khả năng thể hiện xuất sắc hoặc năng lực nổi trội trong các lĩnh vực trí tuệ, sự sáng tạo, khả năng lãnh đạo, nghệ thuật, hoặc các lĩnh vực lí thuyết chuyên biệt. Những HS này thể hiện tài năng đặc biệt của mình từ tất cả các bình diện xã hội, văn hóa và kinh tế”. Học sinh giỏi là những đứa trẻ có năng lực trong các lĩnh vực trí tuệ, sáng tạo, nghệ thuật và năng lực lãnh đạo hoặc lĩnh vực lí thuyết. Những học sinh này cần có sự phục vụ và những hoạt động không theo những điều kiện thông thường của nhà trường nhằm phát triển đầy đủ các năng lực vừa nêu trên. * Dấu hiệu nhận biết trẻ có năng khiếu
- Em đó phải có óc suy nghĩ trừu tượng. Nghĩa là học sinh có khả năng nắm bắt những khái niệm ngôn ngữ học và toán học cao hơn và có khả năng bàn luận những vấn đề phức tạp như đạo đức học, luân lí và tôn giáo, gia đình. Em đó hay hỏi kiểu: Mẹ ơi tại sao mào con gà trống lại có màu đỏ?
- Học sinh đó có tài đặc biệt như khả năng thực hiện các phép tính toán học trong đầu, hoặc hiểu được các khái niệm như toán nhân trước khi được dạy ở trường. Có nghĩa là tiếp cận bài nhanh, học đâu hiểu đấy. Hay "nói leo" ra vẻ biết trước một chút. Đôi khi có vẻ "tinh tướng" với bạn cùng lớp. Ta đây biết trước nhá. Thưa các thầy cô và các bà mẹ đừng buồn vì điều này cho rằng cháu không khiêm tốn. Hầu hết các em nhỏ ở tuổi này bộc lộ theo kiểu như vậy. Đôi khi giáo viên như tôi thấy khó chịu nhưng vui vì đó là đặc điểm tâm lí lứa tuổi. Khi sang cấp Trung học cái kiểu này tự mất đi.
- Em đó phải có khả năng tập trung cao độ vào một hoạt động nào đó với thời gian dài. Đại đa số trẻ cùng lứa khả năng của các em chú ý rất kém. Thường thì các em chỉ tập trung trong vòng 20 phút trở về là tốt. Nhưng riêng các em kiểu này có khả năng tập trung gấp đôi. Khi chú ý cái gì các em kiểu này rất say sưa, cắn bút, làm mọi cách để ra kết quả dù kết quả đó có sai.
- Các em dạng học sinh năng khiếu văn luôn có vốn từ phong phú và hiểu được nhiều từ không đặc trưng dành cho những trẻ cùng tuổi. Do vậy những bài văn của các em viết rất lạ. Ngay kể cả những em có năng khiếu Toán chẳng hạn, tuy văn các em này viết không hay cho lắm nhưng rất chặt chẽ về dùng từ đặt câu, về viếcâu theo mẫu, cảm xúc, cách nghĩ khác người thìThật độc đáo... Chỉ cần một vài câu văn hay là ta đã thấy em đó có năng khiếu rồi. Còn hay hơn nữa thì cần vai trò của các cô thầy giáo dục và bồi dưỡng và phát triển. Do vậy như tôi chả bao giờ dám cho các em này điểm tập làm văn dưới 7 cả.
- Em đó thường là người đầu têu, bày trò, phân việc cho các cuộc chơi của bạn bè em đó. Cứ quan sát các em chơi là biết. Em đó có khả năng lãnh đạo. Nghĩa là em học sinh đó thường tổ chức các hoạt động nhóm trong giờ học, phân công nhiệm vụ, bày trò chơi khi đi với các trẻ khác, thích báo cáo kết quả của nhóm.
- Em đó cũng hay "bảo thủ", cứ cho là mình làm đúng. Thường tìm ra cách giải khác hay hơn chẳng hạn, dài hơn , ngô nghê hơn cách giải thầy cô, sách giáo khoa. Em đó luôn tin tưởng vào những ý kiến và các việc đã làm của mình. Điều này rất quan trọng cho giáo viên khi đãi cát tìm vàng, lựa chọn đội ngũ học sinh giỏi .Tố chất này tôi cho là cần phải có ở trẻ khi vào đội tuyển bồi dưỡng học sinh giỏi. Vì đề thi, vấn đề cuộc sống luôn thay đổi em đó phải biết thích ứng.
- Em luôn thực hiện tốt các môn học khác. Chả có cớ gì học sinh giỏi mà lại không biết vẽ.
- Những năm qua, theo kinh nghiệm, hầu hết các em học sinh giỏi đều hoàn thành tốt các môn học.
- Em đó có tính sáng tạo; nghĩa là, thích kể chuyện, vẽ hoặc âm nhạc, văn nghệ.
- Em đó cần có óc khôi hài và nhanh trí.
- Em đó thích chơi và làm bạn với những trẻ lớn hơn Và thích nói chuyện với người lớn. Nhạy cảm với tình cảm của người khác.
- Em đó có khả năng ghi nhớ các sự việc một cách dễ dàng và có thể nhớ lại và kể lại những sự việc đó vào những lúc thích hợp.
Sau khi nghiên cứu và học tập module th3 tôi đã vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã học tập được vào quá trình thực hiện tại lớp 2A2 như sau:
1. Đối với học sinh học kém
a. Xây dựng động cơ học tập cho học sinh yếu chính là xác định học sinh hiểu học để làm gì? Vì sao phải học?
b. Người ta phân chia động cơ học tập của học sinh ra thành nhiều loại như sau:
+ Động cơ mang tính xã hội: học để sau này góp phần xây dựng đất nước,xây dựng quê hương.
+ Động cơ mang tính cá nhân: học vì lợi ích riêng của mình, muốn hơn người, muốn sau này có vị trí cao trong xã hội
+ Động cơ bên trong: xuất phát từ chính việc học, nghĩa là học để nắm được kiến thức, vận dụng nó vào thực tế một cách khoa học.
+ Động cơ bên ngoài: Học vì muốn có điểm tốt, muốn thầy cô và cha mẹ vui lòng
Có động cơ học tập đúng đắn nghĩa là động cơ xuất phát từ chính việc học, học sinh học tập để có kết quả tốt. Do vậy sẽ tạo cho học sinh yêu thích việc học, có hứng thú trong học tập. Động cơ tạo nên động lực học đó chính là thành tố quan trọng trong cấu trúc hoạt động học tập của học sinh.
- Hệ thống kiến thức theo chương trình.
- Đưa ra nội dung bài tập phù hợp với kiến thức để học sinh có thể luyện tập kiến thức mới và ôn lại kiến thức đã học.
- Phân hóa đối tượng học sinh.
- Quan sát và theo dõi từng hoạt động của các em,bằng nhiều hình thức tổ chức (thi đua cá nhân, thi đua tổ nhóm, đố vui,giải trí,). Kết hợp kiểm tra thường xuyên việc học của các em mỗi ngày nhằm rèn thói quen học bài và làm bài, kích thích hoạt động trí tuệ cho các em. Động viên, khích lệ, tuyên dương kịp thời.
- Tạo cơ hội để trao đổi trực tiếp với phụ huynh học sinh, nắm bắt cụ thể hướng phấn đấu của em vì mục tiêu, kế hoạch chung của lớp,của trườngThông qua các buổi họp phụ huynh học sinh.
- Hợp tác giữa giáo viên và phụ huynh là điều cần thiết để học sinh học tập và rèn luyện. Qua đó, giáo viên sẽ thông tin kịp thời đến phụ huynh về kết quả học tập,hạnh kiểm, các mặt tham gia hoạt động của con em mình thông qua sổ liên lạcGiáo viên và phụ huynh cần phải có sự liên kết hai chiều nhằm có biện pháp tác động phù hợp. Động viên khuyến khích khi các em tiến bộ, nhắc nhở kịp thời khi các em có biểu hiện cần uốn nắn.
- Giáo viên tạo điều kiện tốt nhất về thời gian để học sinh có thể hoàn thành bài học ngay lại lớp.
Ngoài ra, giáo viên cần phải trao đổi trực tiếp đến từng đối tượng học sinh bằng lời nói, cử chỉ, mệnh lệnh thật thuyết phục đến các em. Chính những tác động trực tiếp thường tạo ra dấu ấn tức thì về sự chuyển biến tâm lí như thái độ, hành vi ,tình cảmhọc sinh sẽ dần tiến bộ.
2. Biện pháp giáo dục học sinh cá biệt
Đối với những trẻ nghịch ngợm, hay nói chuyện riêng, sau mỗi lần giảng bài xong, hoặc các em đã làm xong bài tập, các em không biết làm gì nên hay trêu chọc các bạn gây mất trật tự trong lớp cô giáo nói không nghe, theo tôi cần giáo dục các em như sau:
+ Thường xuyên quan tâm sâu sát hoạt động của các em
+ Thường xuyên nhắc nhở động viên kịp thời
+ Khích lệ khi em có tinh thần tập thể và lòng vị tha
+ Không nên phê bình, trách phạt.
+ Không nên sĩ nhục, xúc phạm đến các em.
+ Tránh hình thức áp đặc doạ dẫm, buột các em phải làm theo vì điều đó sẽ không đem lại kết quả gì.
+ Đặc biệt Giáo viên không nên để các em có thời gian rỗi.
+ Kết hợp giữa ba môi trường Giáo dục Gia đình – Nhà trường và Xã hội.
3. Biện pháp giáo dục đối với học sinh khá giỏi, học sinh năng khiếu
- Rà soát phát hiện đi đôi với bồi dưỡng giáo viên Theo dõi nắm bắt đối tượng học sinh. Phân loại học sinh ngay trong tháng 8. Tập hợp và nắm số liệu học sinh giỏi.
- Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi ngay từ đầu năm học.
- Việc bồi dưỡng phải được tiến hành thường xuyên trong mỗi bài, mỗi chương.
- Với học sinh khá giỏi phải biết khơi dậy trong các em tính ham học, thích tìm tòi, hiểu biết. Phải biết nắm chắc kiến thức cơ bản. Từ đó mà phát triển nâng dần kiến thức cao hơn.
- Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh khá giỏi cách học, phương pháp học, chú trọng việc tự học, tự bồi dưỡng và ý thức tự giác học tập.
- Thường xuyên kiểm tra định kỳ. Qua kiểm tra để thấy được học sinh còn hổng chỗ nào để kịp thời có kế hoạch bồi dưỡng phù hợp.
- Kết hợp với phụ huynh để nâng cao chất lượng. Việc kết hợp giáo dục giữa giáo viên và gia đình là một điều không thể thiếu trong việc nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi.
Qua một thời gian vận dụng những kiến thức kĩ năng đã học tập ở module th3 vào thực tế lớp tôi chủ nhiệm. Tôi thấy các em có sự tiến bộ sõ rệt. Không có học sinh vi phạm nội quy của trường, lớp. Trong lớp các em đoàn kết, lễ phép với mọi người, đến cuối năm khi xếp loại hạnh kiểm 100% học sinh xếp loại Thực hiện đầy đủ. Đặc biệt là đối tượng học sinh học kém giảm dần cuối năm học không còn học sinh xếp loại yếu. Số lượng học sinh giỏi được nâng lên rõ rệt. Cụ thể kết quả hai mặt giáo dục đạt được như sau:
TSHS
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Hạnh kiểm
26
13
50,0
10
38,4
3
11,5
0
26
100
Trên đây toàn bộ nội dung tôi đã nghiên, học tập vận dụng trong tháng 12 năm 2014. Rất mong nhận được sự góp ý của Ban giám hiệu nhà trường và các bạn đồng nghiệp, để kết quả học tập bồi dưỡng thường xuyên của tôi trong những năm tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn.
Xin trân thành cảm ơn.
NGƯỜI VIẾT THU HOẠCH
Lương Thị Bộ
File đính kèm:
- Bai thu hoach Boi duong thuong xuyen nam 2014.doc