Việt Nam tham gia ASEAN

Năm 1992 đánh dấu quá trình hội nhập khu vực của Việt Nam sau khi tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam á (TAC), và trở thành Quan sát viên, tham dự các Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) hàng năm. Trong thời gian này, Việt Nam cũng bắt đầu tham gia các hoạt động của một số Ủy ban hợp tác chuyên ngành ASEAN.

Tháng 7/1994, Việt Nam được mời tham dự cuộc họp đầu tiên của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) và trở thành một trong những thành viên sang lập của Diễn đàn này.

Tháng 7/1995, tại Hội nghị AMM 28, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và trở thành thành viên thứ 7 của tổ chức này. Kể từ đó đến nay, Việt Nam đã tham gia đầy đủ các hoạt động của ASEAN và có những đóng góp tích cực trong việc duy trì đoàn kết nội khối, tăng cường hợp tác giữa các nước thành viên, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực.

 

 

doc3 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1944 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Việt Nam tham gia ASEAN, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p tác ở Đông Nam á (TAC), và trở thành Quan sát viên, tham dự các Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) hàng năm. Trong thời gian này, Việt Nam cũng bắt đầu tham gia các hoạt động của một số Ủy ban hợp tác chuyên ngành ASEAN. Tháng 7/1994, Việt Nam được mời tham dự cuộc họp đầu tiên của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) và trở thành một trong những thành viên sang lập của Diễn đàn này. Tháng 7/1995, tại Hội nghị AMM 28, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và trở thành thành viên thứ 7 của tổ chức này. Kể từ đó đến nay, Việt Nam đã tham gia đầy đủ các hoạt động của ASEAN và có những đóng góp tích cực trong việc duy trì đoàn kết nội khối, tăng cường hợp tác giữa các nước thành viên, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực. Việc Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội (12/1998)- chỉ 3 năm sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của ASEAN và trong bối cảnh khu vực đang trong cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính nghiêm trọng, được các nước thành viên ASEAN và dư luận quốc tế nói chung đánh giá cao. Với việc thông qua Chương trình hành động Hà Nội, Cấp cao ASEAN 6 đã góp phần quan trọng tăng cường đoàn kết, đẩy mạnh hợp tác, khôi phục hình ảnh ASEAN, đặc biệt định hướng cho sự phát triển và hợp tác của Hiệp Hội trong những năm kế tiếp để thực hiện Tầm nhìn 2020. Từ tháng 7/2000-7/2001, Việt Nam đã hoàn thành tốt vài trò Chủ tịch Ủy ban thường trực ASEAN ( ASC) và ARF, tổ chức và chủ trì thành công Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 34 ( AMM 34), Diễn đàn khu vực ASEAN lần thứ 8 (ARF 8), Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và các nước Đồng Bắc Á (ASEAN +3), Các Hội nghị sau Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao giữa ASEAN với các nước đối thoại ( PMC + 10) và với từng nước Đối thoại ( PMC +1) và Hội nghị sông Hằng- Sông Mê kong vào cuối tháng 7/2001. Trong năm Việt Nam làm chủ tịch, ASEAN và ARF  đã đạt được những kết quả quan trọng, tiếp tục phát triển đúng hướng, phù hợp với lợi ích của từng nước ASEAN và lợi ích của cả khu vực. Trong thời gian này, với vai trò chủ trì và điều phối của Việt Nam, ASEAN đã phê chuẩn Nghị định thư thứ hai của Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác, thông qua Quy chế của Hội đồng Tối cao TAC và tổ chức cuộc họp đầu tiên của Hội đồng trong dịp AMM 34; lần đầu tiên ASEAN đã tiến hành tham khảo trực tiếp với năm cường quốc hạt nhân trong khuôn khổ Hiệp định SEANWFZ. ASEAN cũng đạt nhiều tiến triển trong việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông với Trung quốc, tạo tiền đề cho việc ra Tuyên bố về cách ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông sau này. Trong năm Việt Nam làm chủ tịch ARF, tiến trình ARF tiếp tục tiến triển với việc thông qua một số tài liệu quan trọng như Tài liệu qui định về chức năng, nhiệm vụ của Chủ tịch ARF, Tài liệu về qui chế đăng ký chuyên gia ARF và Tài liệu về khái niệm và nguyên tắc của ngoại giao phòng ngừa. Các lĩnh vực Hợp tác trong ASEAN đã được tăng cường qua việc đẩy mạnh thực hiện Chương trình Hành động Hà Nội, thông qua Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển, triển khai Sáng kiến liên kết ASEAN ( IAI) nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, hỗ trợ thành viên mới hội nhập khu vực. Nhiều quyết định quan trọng và thiết thực đối với Hiệp hội cũng đã được triển khai trong thời gian Việt Nam đảm đương chức Chủ tịch như lập đường dây nóng ở các cấp lãnh đạo ASEAN, cải tiến hình thức, lề lối làm việc để ASEAN hoạt động thực chất và hiệu quả hơn. Quan hệ của ASEAN với các nước đối thoại được tăng cường, ASEAN tiếp tục giữ được thế chủ động và vai trò trong các mối quan hệ này và đã thiết lập quan hệ chính thức với Tổng thư ký Liên hợp quốc, Phong trào không liên kết, OAU, OAS, ECO, GCC, Nhóm Rio, SAARC… Quan hệ với EU đã có tiến triển đáng kể, hợp tác giữa các nước sông Hằng và Sông Mê Kong đã được khởi động, tiến trình ASEAN+3 đã tiến thêm một bước với việc thành lập Nhóm nghiên cứu Đông Á... Sau thành công của cấp cao ASEAN 6, tiếp tục phát huy vai trò đã được nâng cao trong ASEAN và trên cơ sở những thành tựu, kinh nghiệm tích lũy được trong vai trò chủ trì, điều phối các hoạt động của ASEAN, Việt Nam đã chủ động hơn trong việc tham gia hợp tác ASEAN, hướng hoạt động của ASEAN vào những nội dung hợp tác thiết thực, vừa đảm bảo lợi ích của Việt Nam, vừa thể hiện quan tâm chung của ASEAN và các nước đối thoại. Nhằm duy trì môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực, Việt Nam đã cùng với các nước ASEAN khác ký với Trung Quốc Tuyên bố chung ASEAN-Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (2002); Sau khi ký kết, Việt Nam đã chủ động đưa ra các biện pháp cụ thể để thực hiện Tuyên bố này, theo hướng triển khai hợp tác dần từng bước, trước hết trong những lĩnh vực khả thi, ít nhậy cảm. Việt Nam cũng thể hiện vai trò tích cực trong việc ASEAN thông qua Tuyên bố hòa hợp ASEAN II tại Bali, In-đô-nê-xia (10/2003) trong đó đề ra những định hướng chiến lược cho sự phát triển của ASEAN, hướng tới xây dựng một cộng đồng ASEAN năng động, tự cường và gắn kết vào năm 2020 (sau này ASEAN quyết định là vào năm 2015) với ba trụ cột chính là Cộng đồng an ninh ASEAN ( ASC), Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và Cộng đồng văn hóa xã hội ASEAN (ASCC- ý tưởng về việc hình thành cộng đồng này là theo sáng kiến của Việt Nam);và các Kế hoạch hành động nhằm triển khai thực hiện Tuyên bố hòa hợp ASEAN II (11/2004 tại Viên chăn), bao gồm: Kế hoạch hành động của ASC, Kế hoạch hành động của ASCC, Hiệp định khung ASEAN về 11 lĩnh vực ưu tiên hội nhập và Chương trình Hành động Viên chăn. Trong quá trình soạn thảo và đi đến ký kết Hiến chương ASEAN (tại cấp cao ASEAN 13, tháng 11/2007 tại Sing-ga-po), Việt nam đã tham gia đầy đủ 13 vòng thương lượng khá phức tạp của Nhóm đặc trách cao cấp và 3 cuộc họp các ngoại trưởng để cho ý kiến chỉ đạo về hướng xử lý những vấn đề lớn trong quá trình soạn thảo Hiến chương. Do có sự chuẩn bị tốt về nội dung, Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng về nội dung, đưa ra một số sáng kiến, đồng thời thể hiện vai trò là một thành viên năng động, trách nhiệm được các thành viên ASEAN và các nước đối thoại đánh giá cao. Việt Nam cũng thể hiện rõ vai trò là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững các nguyên tắc cơ bản, định hướng phát triển đúng của ASEAN, duy trì và tăng cường đoàn kết, nhất trí trong Hiệp hội. Sự tham gia tích cực của Việt Nam trong quá trình soạn thảo Hiến chương đã góp phần không nhỏ để Hiến chương được hoàn tất và ký kết với những nội dung cơ bản và toàn diện, đúc kết và hệ thống hóa những mục tiêu, nguyên tắc cơ bản và thỏa thuận đã có của ASEAN và cập nhật một số nội dung cho phù hợp với tình hình mới. Hiến chương cũng đã thể hiện khá cân bằng và dung hòa quan điểm và lợi ích của cơ bản của các nước thành viên, phản ánh sự "thống nhất trong đa dạng" của ASEAN. Sau khi Hiến chương được ký kết, Việt Nam là một trong những nước sớm phê chuẩn Hiến chương (Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký phê chuẩn Hiến chương ngày 06/03/2008) và tích cực tham gia các hoạt động chung của ASEAN trong việc tiến hành các công tác chuẩn bị cho Hiến chương có hiệu lực, nhất là xây dựng Quy chế hoạt động của các cơ quan mới của ASEAN; tham gia tích cực các hoạt động của Nhóm đặc trách (HLP) và soạn thảo Điều khoản tham chiếu của Cơ quan nhân quyền ASEAN và Nhóm chuyên gia pháp lý (HLEG). Với sự tham gia tích cực và hiệu quả của Việt nam, trong thời gian gần đây, ASEAN tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình liên kết khu vực. Sau khi hoàn tất công tác soạn thảo (2008) các kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng chính trị-an ninh và Cộng đồng Văn hóa-xã hội cùng với Khuôn khổ chiến lược về Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI) và Kế hoạch Công tác thực hiện IAI giai đoạn 2 (2009-2015), Cấp cao ASEAN 14 đã thông qua các Văn kiện này (tháng 2/2009) để trở thành Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN đến năm 2015. Bên cạnh việc tăng cường thúc đẩy hợp tác nội khối, Việt Nam đã tích cực tham gia thúc đẩy hợp tác giữa ASEAN với các nước đối tác bên ngoài trên nhiều lĩnh vực khác nhau và xử lý các thách thức mới nẩy sinh. Việt Nam đã triển khai Sáng kiến do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đưa ra tại Cấp Cao ASEAN 11, theo đó ta đã tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng môi trường Đông Á lần thứ nhất (tháng 10/2008 tại Hà Nội). Việt Nam đã làm tốt vai trò điều phối viên trong quan hệ đối thoại ASEAN- Canada và với Tổ chức hợp tác vùng Vịnh (GCC). Trước đó (năm 2007), ASEAN đã cơ bản hoàn tất các khuôn khổ đối tác toàn diện hoặc chiến lược và kế hoạch hành động cụ thể với từng nước đối thoại như: Tuyên bố chung về Quan hệ đối tác toàn diện ( tháng 8/2007) và Kế hoạch hành động (tháng 11/2007) với Ôx-trây-lia, Tuyên bố chung về Quan hệ tăng cường ( 3/2007) và Kế hoạch Hành động ( 11/2007) với EU; Kế hoạch Công tác ASEAN-Canada giai đoạn 2007-2010 ( 8/2007), Ký Hiệp định Hợp tác với Liên hợp quốc ( 9/2007).  ASEAN cũng đã ký nhiều thỏa thuận nhằm tăng cường liên kết kinh tế với các nước đối thoại,trong đó có việc đàm phán và triển khai lập FTA/CEP với nhiều đối tác: Ký Hiệp định thương mại hàng hóa và Hiệp định thương mại dịch vụ với Trung quốc (2007);  Đã ký Thỏa thuận về Đối tác kinh tế toàn diện ( 2/2008) với Nhật bản; Ký Hiệp định thương mại Hàng hóa và Hiệp định Thương mại Dịch vụ với Hàn quốc.... Sau 14 năm tham gia ASEAN, Việt Nam đã khẳng định được vị thế và uy tín của mình; các nước thành viên ASEAN và các nước đối tác bên ngoài đều đánh giá cao sự tham gia tích cực và những đóng góp của Việt Nam trong việc củng cố và phát triển trong Hiệp hội, cũng như quan hệ hợp tác với các nước đối thoại của ASEAN.Tham gia hợp tác trong ASEAN đã góp phần quan trọng vào việc củng cố môi trường hòa bình và an ninh cho sự nghiệp phát triển đất nước; phá thế bao vây về chính trị, cô lập về kinh tế, tạo thuận lợi cho triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ; đa phương hóa, đa dạng hoá của Đảng ta. Những kinh nghiệm, bài học quí báu rút ra từ quá trình tham gia ASEAN sẽ là tiền đề thuận lợi để Việt Nam có thể đảm đương tốt vai trò Chủ tịch ASEAN trong năm 2010, tiếp tục khẳng định vai trò và vị thế của minh trong khu vực và trên trường quốc tế./.

File đính kèm:

  • docVIET NAM THAM GIA ASEAN.doc
Giáo án liên quan