Toàn cảnh về WTO

WTO là gì?

WTO là tên viết tắt từ tiếng Anh của Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization). WTO được thành lập theo Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới ký tại Marrakesh (Marốc) ngày 15/4/1994. WTO chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995.

Có thể hình dung một cách đơn giản về WTO như sau:

• WTO là nơi đề ra những quy định:

Ðể điều tiết hoạt động thương mại giữa các quốc gia trên quy mô toàn thế giới hoặc gần như toàn thế giới. Tính đến thời điểm 31/12/2005, WTO có 148 thành viên. (Xem thêm Phụ lục Danh sách các thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ).

• WTO là một diễn đàn để các nước, các thành viên đàm phán:

Người ta thường nói, bản thân sự ra đời của WTO là kết quả của các cuộc đàm phán. Sau khi ra đời, WTO đang tiếp tục tổ chức các cuộc đàm phán mới. "Tất cả những gì tổ chức này làm được đều thông qua con đường đàm phán". Có thể nói, WTO chính là một diễn đàn để các quốc gia, các thành viên tiến hành thoả thuận, thương lượng, nhân nhượng nhau về các vấn đề thương mại, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ., để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa các bên

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1488 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Toàn cảnh về WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ào cam kết, nên bỏ, ngân hàng phụ thì chúng ta có ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chúng ta không thể mở theo kiểu đó được. Cuối cùng, Trung Quốc cũng chấp nhận. Ðặc biệt, đàm phán sau này với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ và EU là các đối tác lớn nhất trong WTO cả về hàng hóa và dịch vụ. Hoa Kỳ và EU đàm phán không phải vì lợi ích của Hoa Kỳ và EU mà vì lợi ích của cả Tổ chức Thương mại thế giới, nên yêu cầu đàm phán rộng hơn, sâu và đa dạng hơn. Ðàm phán như vậy rất phức tạp. Chúng ta cho rằng xong đàm phán song phương (BTA) thì sẽ gần xong việc gia nhập WTO, trên thực chất, có một số vấn đề rất lớn chưa giải quyết được, như hàng dệt may Việt Nam còn hạn ngạch. Mặt khác chúng ta vẫn còn bị luật Jackson vanik hằng năm Quốc hội Hoa Kỳ gia hạn một lần về cơ chế thương mại và chúng ta chưa được hưởng quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR). Vì vậy, để có được PNTR, Hoa Kỳ yêu cầu chúng ta phải có đủ BTA, gia nhập WTO. Hiện nay, chúng ta làm xong cả hai nhiệm vụ đó. Hoa Kỳ đánh giá Việt Nam thực hiện đầy đủ BTA, đồng thời kết thúc đàm phán về gia nhập WTO. Ðó là điều kiện để trình PNTR, chúng ta đang tích cực vận động để Quốc hội Hoa Kỳ thông qua PNTR. Việt Nam mới được hưởng thuế phổ thông, chưa được hưởng thuế ưu đãi GST. Hoa Kỳ dành cho 72-74 nước được hưởng GST không có Việt Nam, cho nên, gia nhập WTO là cơ hội cho chúng ta trong một số vấn đề mà chúng tôi nêu. Kết thúc đàm phán với Hoa Kỳ có người nói chưa hài lòng, có người nói được nhiều, có người nói được ít. Chúng tôi thống nhất đây là đàm phán mà hai bên đều giành thắng lợi. Trên thực chất, các nhà đàm phán luôn như thể no bụng đói con mắt, thường đòi những điều kiện cam kết rất cao, nhưng nhà doanh nghiệp không cần cái đó. Nhà doanh nghiệp miễn có lợi là làm. Cam kết có cao mấy mà không có lợi thì vẫn không vào. Ðó là sự khác nhau giữa nhà đàm phán và doanh nghiệp. Thí dụ đòi mở ngân hàng như thế chúng ta đã cho chi nhánh 100% vốn, nhưng ngân hàng Mỹ vì chiến lược phát triển của họ nên rút, không ở Việt Nam. Giữa cam kết của nhà đàm phán với doanh nghiệp có khoảng cách. Nếu chúng ta kết thúc đàm phán với Hoa Kỳ mà giành được PNTR, quỹ OPEC, quỹ hỗ trợ ngân hàng EXIMBANK mới hoạt động mạnh. Khi đó quan hệ đầu tư của các nhà đầu tư lớn, xuất khẩu của Hoa Kỳ mạnh hơn. Kim ngạch buôn bán Việt Nam - Hoa Kỳ sẽ tăng trưởng đáng kể trong thời gian tới. Theo Website Bộ Thương mại Top of Form Tiến trình gia nhập WTO, cơ hội và thách thức đối với nước ta (phần III) Phần III của bài viết "Tiến trình gia nhập WTO, cơ hội và thách thức đối với nước ta" của Thứ trưởng Thương mại Lương Văn Tự, Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ về kinh tế và thương mại quốc tế, Tổng Thư ký Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, đưa ra những nhận định về những thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO. Những thách thức khi gia nhập WTO Chúng ta kết thúc đàm phán song phương về gia nhập WTO, chúng ta cũng gặp rất nhiều thách thức. Thứ nhất, chúng ta muốn có thị trường toàn cầu thì chúng ta phải mở cửa thị trường cho các nước. Ðây là thách thức lớn nhất. Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam tuy bây giờ có số lượng rất đông 230 nghìn doanh nghiệp nhưng phần lớn là nhỏ và vừa, cho nên năng lực cạnh tranh kém. Ðó cũng là thách thức. Nhưng cũng có điều các doanh nghiệp Việt Nam năng động và cũng chuyển động rất nhanh khi môi trường kinh doanh thay đổi, nhưng lại bị hạn chế bởi vốn, công nghệ và năng lực. Từ đó dẫn tới năng lực cạnh tranh thị trường các mặt hàng của Việt Nam bị hạn chế. Tất nhiên, từng ngành có khác, năng lực cạnh tranh chỉ là tương đối, nay khác, mai khác. Thí dụ, đóng tàu chẳng hạn, trước đây có bao giờ Việt Nam nghĩ là sẽ đóng nhiều tàu biển đâu, nhưng sau khi lợi thế về đóng tàu thay đổi, chuyển từ châu Âu sang Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, lương công nhân rất cao, thì Việt Nam lại trở thành nơi hấp dẫn đối với ngành đóng tàu trên thế giới. Chúng ta có ưu điểm: công nhân nhiều, nhiều vũng, vịnh kín có thể đóng tàu quanh năm. Ngành may mặc thì lương công nhân ở các nước ASEAN cao, họ sẽ chuyển sang Việt Nam; Thái Lan, Malaysia đang rất thiếu lao động. Malaysia mỗi năm phải nhập khẩu đến ba triệu lao động, Singapore nhập khẩu 0,5 triệu lao động. Các nước khác phải chuyển sang Việt Nam. Ở nước ta, Singapore có hai khu công nghiệp. Họ chuyển các lĩnh vực ít khả năng cạnh tranh sang ta. Ðây là một lợi thế. Chúng ta thấy rằng các doanh nghiệp Việt Nam lại phải chấp nhận sự cạnh tranh như thế. Thứ ba là, rất nhiều chính sách liên quan kinh tế thương mại sẽ thay đổi. Thí dụ phần liên quan trợ cấp cũ mà không phù hợp, WTO sẽ bỏ hạn ngạch, cấp phép, rồi cũng sẽ bỏ hết. Như thế tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp của chúng ta. Nhưng đồng thời làm cho các doanh nghiệp lâu nay dựa vào đó sống và phát triển phải chuyển sang hình thức kinh doanh không được bảo hộ hoặc mức bảo hộ thấp. Thuế cũng như vậy, Nhà nước giảm thuế cũng tác động một phần đến ngân sách. Phần đóng góp ngân sách từ thuế nhập khẩu mỗi ngày một giảm. Trước kia, thuế nhập khẩu có lúc đến 30% GDP, bây giờ chỉ còn 15%, nhưng kim ngạch buôn bán tăng thì nó tăng. Chúng ta tăng kim ngạch buôn bán để tăng thuế. Hoặc có những cam kết chúng ta đã thực hiện rồi, như trị giá hải quan, chúng ta bỏ thuế mà áp dụng mức thuế tuyệt đối... Các doanh nghiệp nhập khẩu, giá theo giá hợp đồng. Có một số doanh nghiệp ảnh hưởng, nhưng kiểm tra, kiểm soát thì nó đi vào trật tự. Thế giới cũng phải trải qua giai đoạn đó không riêng quốc gia nào. Qua hậu kiểm để bảo đảm thu thuế. Vấn đề an sinh xã hội, sẽ phải giải quyết tình trạng một số doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc không có năng lực cạnh tranh sẽ gặp khó khăn, phá sản. Vậy giải quyết vấn đề trợ cấp, việc làm như thế nào cho lao động các doanh nghiệp này, đào tạo lại để họ tìm việc làm mới. Ðấy là những việc chúng ta phải làm. Vấn đề nguồn lực, cái quyết định nhất là con người, khi chúng ta mở cửa vấn đề cạnh tranh giành nguồn lực này rất khốc liệt. Chúng tôi hỏi Singapore khi mở cửa sợ nhất cái gì, phía bạn trả lời quan trọng là làm sao giữ được người tài để phục vụ đất nước. Khi các doanh nghiệp nước ngoài vào, các cuộc cạnh tranh sẽ diễn ra, các doanh nghiệp sẽ dùng lương để thu hút người lao động giỏi, cho nên chúng ta, một mặt, cũng phải có chiến lược đào tạo, giữ những người có năng lực làm cho mình, giữ như thế nào tùy vào từng doanh nghiệp, không có bài toán chung cho tất cả. Có nhiều cách khác nhau để giữ người, cổ phần nhất định, lương cao, đối xử, tình cảm,... Muốn hay không Nhà nước phải có chính sách để đào tạo, đào tạo lại người lao động. Hiện nay, tuy Việt Nam có lao động đông, nhưng lao động của chúng ta cũng có một số hạn chế: yếu ngoại ngữ, tác phong công nghiệp. Không chỉ trong lĩnh vực các doanh nghiệp mà cả ở các cơ quan quản lý nhà nước. Thí dụ, Trung Quốc, có hẳn một chỉ thị, đối với cán bộ lãnh đạo quận, huyện, các tỉnh biên giới gần Việt Nam phải biết tiếng Việt. Cho nên, khi chúng ta sang đó họ nói tiếng Việt rất thạo. Vấn đề là cán bộ quản lý Việt Nam phải biết ngoại ngữ. Mặt khác, phải chuyển cách quản lý theo phong cách mới. Ngày xưa quản bằng các lệnh, chỉ thị, can thiệp trực tiếp vào các doanh nghiệp, thì nay không còn, còn rất ít, chỉ còn những doanh nghiệp có vốn lớn của Nhà nước, quản lý thông qua biện pháp gián tiếp như xây dựng pháp luật, chính sách và kiểm tra đôn đốc việc thực hiện đó. Việc nắm từng ngành, hàng, không giống như trước, nhưng vẫn phải nắm. Khi chúng ta bỏ quản lý xuất khẩu gạo, lúc đầu mọi người rất ngại, sợ có thể xuất vượt, đến khi quyết định làm thì làm rất tốt. Mọi thành phần có thể xuất khẩu gạo được, nhưng chúng ta vẫn quản lý được vì mọi công việc giao cho hiệp hội. Hiệp hội đóng vai trò chính. Hiện nay, Nhà nước chuyển những vai trò mà Nhà nước không làm sang hiệp hội ngành hàng để bảo vệ ngành hàng, hợp tác liên kết để phát triển. Các cách làm cũ giành khách hàng bằng hạ giá không còn giá trị, làm ta yếu đi. Vai trò của hiệp hội, ngành hàng rất quan trọng. Liên kết để phát triển để xây dựng hệ thống phân phối trong nước. Các doanh nghiệp liên kết để ra thị trường thế giới, liên kết doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Chúng ta cần liên kết với nhau để tạo sức mạnh cho nhau và phát triển. Hiện nay, thị trường trong nước còn rất nhiều điều kiện phát triển. Có nhiều sinh viên Việt Nam sang học thạc sĩ ở Hoa Kỳ rất giỏi, có những trường Hoa Kỳ giữ lại, số đó vẫn về Việt Nam vì họ thấy cơ hội làm ăn ở Việt Nam nhiều hơn ở Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã phát triển tới mức độ rất cao. Muốn làm ăn ở Hoa Kỳ phải có vốn, mạng lưới mới sống được, nhưng về Việt Nam có rất nhiều cơ hội. Ðấy cũng là những thách thức, nhưng nếu chúng ta biết vượt lên chúng ta sẽ phát triển. Khi làm việc với hãng Nokia, thấy chiến lược nhờ đó mà họ trở thành công ty điện thoại di động số 1 thế giới, họ coi tất cả những thách thức là cơ hội mới, cuộc sống không có thử thách thì không có cuộc sống. Họ coi thách thức là một cơ hội, khi họ vượt qua được thì họ trở thành số 1. Chúng tôi cho rằng gia nhập WTO chúng ta có rất nhiều thời cơ, cũng có rất nhiều thách thức. Cơ hội đó có hay không phải do chính sách, do các doanh nghiệp. Nói mở thị trường hay không thì toàn bộ doanh nghiệp không sản xuất hàng xuất khẩu thì cũng vô nghĩa. Bây giờ nói mở ra để thu hút đầu tư nhưng toàn bộ doanh nghiệp, các địa phương, không thu hút đầu tư thì chúng ta cũng không đạt. Gia nhập WTO để chúng ta phát triển, nhưng không có nghĩa bản thân việc gia nhập WTO là chúng ta giàu có lên, hay chúng ta nghèo đi, mà đó là một cơ hội. Chúng ta tranh thủ được cơ hội đó, thì chúng ta giàu có. Chúng ta vượt qua được thách thức thì chúng ta tạo được cơ hội mới. Ðó là một thực tế. Nếu tranh thủ được thời cơ này, và chấp nhận để vượt qua thách thức này, chúng ta sẽ đưa nền kinh tế phát triển lên trình độ cao hơn, nhưng cũng đòi hỏi sự cố gắng của tất cả các bộ, ngành, nhất là sự lao động sáng tạo, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Việt Nam để chúng ta mạnh lên và phát triển nhanh hơn. Hết Theo Website của Bộ Thương mại Bottom of Form Bottom of Form Bottom of Form

File đính kèm:

  • docWTO.DOC
Giáo án liên quan