Đề tài Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 tăng nhanh vốn từ và hiểu nghĩa từ khi học môn tiếng việt

 Sau khi rời bàn tay chăm sóc của ông bà cha mẹ, và sự dạy dỗ của các cô giáo mầm non . Trẻ 6 tuôi bước vào một giai đoạn mới là thay đổi bậc học . Bước đàu đến trường vừa làm quen với môi trường mới, thầy cô mới ,bắt đầu đi vào việc học chữ, học đọc , học viết nên trẻ còn nhiều bỡ ngỡ. Vì thế việc tiếp thu kiến thức bước đầu thật khó khăn.Trẻ phải biết và nói lên được những yêu cầu cần thiết của một bài học nhìn vào

 âm - vần - tiếng -từ -câu

 

doc8 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1705 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 tăng nhanh vốn từ và hiểu nghĩa từ khi học môn tiếng việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cách viết và cách đọc trong chữ viết tiếng việt có sự không đồng nhất ( chẳng hạn khi đọc tiếng “ kẻ ” đa số h/s lớp 1 chưa nghĩ ra trong trường hợp này khi viết nên viết “c” hay “k ” .Vậy thông qua từng bài học cụ thể ( ch ẳng hạn b ài e- ê khi k ết hợp với k - h/s dễ dàng nhận thấy đi ều đó ngay trong bài h ọc “ e- ê” hoặc “ qua – ca ”…Như vậy sau mỗi bài học việc khắc sâu kiến thức ngay trong mỗi bài học là hết sức quan trọng gi úp h/s c ó thể nhớ k ỹ. Khi ghép được các tiếng mới rồi đồng thời bước đầu nắm được 1 số quy tắc về chính tả giúp các em nhanh chóng thuộc bài và vận dụng tốt vào kỹ năng viết đúng chính tả. Không những thế trên cơ sở các tiếng đơn đó , học sinh sẽ ghép được các tiếng đã học với các tiếng vừa xây dựng để thành từ băng cách sử dụng hộp đồ dùng thực hành tiếng việt.Qua việc làm này học sinh có được vốn từ thêm phong phú. Ví dụ : ba lô bé nhỏ ba má bé thơ bà ba be bé ba ba vì bé bé tí số ba cô bé ba ba bé bỏng ba sa sông bé …. . … …… Đây là việc làm tôi đưa ra thực hiện sau khi học khá nhiều bài trong chương trình học về âm -chữ ghi âm nhằm giúp h/s hiểu thêm về vốn từ . Đốí với một số từ còn khó hiểu và xa lạ với học sinh tôi giảng giải nghĩa từ thật ngắn gọn để giúp học sinh hiểu và sử dụng từ tốt trong nói viết . Ở đây giáo viên có rất nhiều hình thức sử dụng để giảng giải nghĩa từ cho học sinh hiểu dễ nhớ như dùng tranh minh họa , đồ dùng trực quan , hành động ,lưòi nói… -Ví dụ : Từ :ba lô sử dụng vật thật Từ : ba vì : gọi tên của 1 địa danh ở thủ đô Hà Nội Từ : ba sa : từ gọi tên của một loài cá …….. -Từ đó giúp các em hiểu từ và và nhận biết các đồ vật chính xác hơn. Thông qua 2 bảng ôn ở phần trên sau mỗi buổi học ôn về kiến thức tiếng việt tôi lại giúp học sinh khắc sâu một cách tổng hợp hơn thông qua mở rộng vốn từ . Với các âm g- gh, ng – ngh c - k tôi hướng dẫn các em hiểu thêm về luật chính tả khi sử dụng để ghép tiếng ,ghép từ. -Ví dụ : g k ng o, ô, ơ, u, ư, a , gh i ( y ), e, ê c ngh ( lưu ý chữ y dài thưòng chỉ xuất hiện khi kết hợp với k ) -Trên cơ sở học về luật chính tả rồi khi tìm từ học sinh sẽ bắt gặp một số từ sau khi đó các em biết lựa chọn như thế nào để viết đúng : Nghi ngờ - kì cọ gồ ghề - ngô nghê Như vậy giai đoạn 1 để học âm và chữ ghi âm tốt đòi hỏi giáo viên phải công phu tìm ra biện pháp hữu hiệu nhất bởi giai đoạn này h/s mới làm quen nên taọ không khí cho các em học một giờ học sôi nổi để giờ học nhẹ nhàng mà có hiệu quả. *Giai đoạn 2 : Đây là giai đoạn lúc trẻ chuyển sang học vần : Khi việc tìm ra tiếng và từ mới cuả học sinh đã thành thạo và thành kỹ năng rồi thì sang phần vần càng giúp các em tìm từ mới khá nhanh và tiết học diến ra sôi động hơn.Các em sẽ thi nhau tìm và phát hiện ra nhiều tiếng từ mới kể cả học sinh trung bình cả lớp . Qua thực tế vốn từ ngữ của các em sẽ rất nhiều à phong phú . Ở giai đoạn này Giáo viên cũng có thể sử dụng phương pháp dùng bảng ghép như ở trên : Ghép âm đầu với các vần rồi thanh điệu ( trường hợp này dành cho đối tượng học sinh còn ở mức trung bình và yếu là rất hiệu quả) . Nhưng ta nhận thấy rằng hiệu quả lại không cao và không phát huy được trí lực của học sinh với đối tượng khá giỏi.Muốn đạt được kết quả cao trong từng bài học và giúp h/s yếu quen dần cách tư duy thì ta có thể thay bằng việc giải quyết các bài tập tiếng việt dưới dạng trò chơi học tập để học sinh tự ghép và viết được các từ ( giáo viên phải đầu tư suy nghĩ để dưa ra trò chơi hợp lí phù hợp với đối tượng học sinh và đồng thời khắc sâu kiến thức trong bài hay phần vừa học ) -Ví dụ 1: Khi dạy bài vần yên – iên tôi đưa ra dạng bài tập sau để học sinh chơi Nối iên hay yên ? t….tiến Iên … xe b…. cả yên …. lão Ch…. đấu th…. nhiên …. tĩnh Trên cơ sở đó học sinh phải suy nghĩ để tìm được tiếng trong từ có nghĩa và đúng quy luật chính tả .Củng từ bài tập này các em củng cố về cách viết vần trong tiếng sao cho hợp lý.Đây là một dạng bài tập không khó nhưng học sinh lại thích làm bơỉ khi đưa ra bài tập này giáo viên mở rộng vốn thông qua một trò chơi học tập nên các em rất hứng thú và năng suất hiệu quả lại cao. Ví dụ 2 : Nối âm với vần để thành tiếng đúng ,sau đó thêm dấu thanh vào tiếng và phát triển thành từ có 2 tiếng có nghĩa in ương c en k ơn un iêu ung inh Từ những bài tập kiểu như vậy đòi hỏi các em vừ nắm chắc quy tắc chính tả lại vừa phát triển thành từ để các em có vốn từ thêm phong phú hơn. Ví dụ 3 : Khi dạy bài vần uê –uy tôi đưa ra dạng bài tập sau để học sinh làm quen với cách nhận diện từ có 1 tiếng có nghĩa thông qua bài tập nối Nối âm với vần để tạo thành từ 1 tiếng có nghĩa Th S h uê Ng uy kh Rõ ràng qua bài tập này các em ngoài kiến thức tiếng việt còn là kiến thức từ thực tế để có được các từ ( thuê, suy, nguy , huy,khuy…) Sau đó ghép thêm dấu thanh để được các từ mới khác nữa, có nghĩa .Từ tiếng hay từ có 1 tiếng ta ghép thành từ có 2 tiếng như : thuê nhà , đóng thếu , nguy hiểm , khuy áo, huy hiệu , suy yếu … Trong quá trình ghép tiếng mới từ mới nếu gặp những từ không bình thường , thiếu văn hóa hoặc không có trong thực tế thì giáo viên cần uốn nắn ngay cho trẻ để các em biết chọn từ đúng hay sử dụng . + Giai đoạn3 : Giai đoạn tập đọc Chuyển sang giai đoạn tập đọc thì việc tìm từ đã ở mức độ cao hơn . Ngoài viếc giúp học sinh hiểu để tiến tới rèn đọc lưu lóat, diễn cảm. Khi đưa ra các từ trong bài tập đọc trong sách giáo khoa cần giúp các em hiểu nghĩa từ bằng cách có thể là tìm từ cùng nghĩa , gần nghĩa hay trái nghĩa,…( ở mức độ dễ) Cũng có thể sử dụng tranh để học sinh dễ tư duy và phát huy được tính tích cực của nhiều học sinh. -Ví dụ khi dạy bài tập đọc “ sau cơn mưa ” Qua việc đưa tranh minh họa ra khi giảng bài ,học sinh hiểu được : sau trận mưa bầu trời ,mặt đất , mọi vật đều tươi đẹp. Sau khi học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của bầu trời sau cơn mưa rồi tôi hướng dẫn các em chỉ một vì chi tiết nhỏ chẳng hạn : Câu : “ những đóa râm bụt thêm đỏ chói ” Tôi rút ra từ “đỏ chói’’ và yêu cầu các em tìm những từ cùng nghĩa và gần nghĩa ( hay những từ chỉ mức độ khác nhau của màu đỏ ) Các em sẽ tìm đước rất nhiều từ như : đỏ thắm , đỏ bừng , đỏ tươi, đỏ au, đỏ rực , đỏ lựng , đỏ bừng … Sau đó các em có thể diễn đạt lại màu đỏ của hoa râm bụt theo cảm nhận của mình . “đỏ chói ” có thể thay bằng các từ khác như : đỏ rực , đỏ thắm , đỏ tươi…Từ đó giúp các em hiểu thêm từ tiếng việt rất phong phú nhưng dùng từ như thế nào cho hợp nghĩa mới là điều quan trọng trong việc luyện nói ,viết . Ở trình độ các em tùy theo khả năng tìm từ nhiều hay ít .Tuy nhiên, khi học sinh đưa ra những từ ngữ còn sai lệch do các em chưa hiểu giáo viên cần uốn nắn sửa sai ngay .Nếu trong quá trình tìm từ g ặp ph ải nh ững từ hán việt học sinh chưa hiểu từ đó gi áo viên nên dừng lại và giải thich ngay : Ví dụ từ “ sĩ số ” sĩ : học trò , số :số lượng ) số lượng học trò … Ngoài ra sau mỗi bài tập đọc phần luyện nói về một chủ đề hay về một khía cạnh của nội dung bài học là cơ hội giúp các em luyện nói .Trong tiết luyện nói đó tôi có cơ hội để giúp các em cung cấp thêm vốn từ .Vì thế tôi xem đây là phần học quan trọng trong môn tiếng việt ,tôi dành thời gian nhiều cho việc luyện nói ít nhất trong mỗi tiết số em được nói theo nhóm đôi rồi trước lớp là 8-10 em và qua mỗi bài luyện nói của các em ,các em có sự tự tin và biết nhận xét sửa sai cho nhau về lỗi dùng từ và diễn đạt câu đoạn . Được nói ý của mình trước lớp các em thêm mạnh dạn và rèn kỹ năng nói trôi chảy và bước đầu hiểu thêm từ được dùng đúng nghĩa của nó. Sau tiết luyện nói là luyện viết : chẳng hạn (viết từ 3-4 câu về người mẹ thân yêu của em )phần này tôi đưa vào dạy trong những tiết học luyện tiếng được nói theo ý mình rồi các em sẽ diễn đạt được vào bài viết . Thông qua bài viết các em lại một lần nữa hiểu thêm về câu, từ, ý để học sinh bước đầu làm quen với một đoạn văn ngắn .Từ đó các em có cơ sở để viết văn sau này . Trên đây là một số dạng bài tập nhằm phát triển vốn từ cho học sinh mà tôi đã vận dụng nó vào những tiết học tiếng việt rất hiệu quả trong năm qua nhưng phần nào cũng còn có sự chưa thật chặt chẽ bản thân mong đồng nghiệp góp ý và trao đổi thêm. V / Kết quả : Qua một số cách làm trên và kết hợp vớicác biện pháp rèn đọc - luyện viết cho các em , tôi đã gíp các em có sự hiểu biết và vốn từ khá phong phú .Chính vì vậy tôi đã thu được một số kết quả chủ yếu trong dạy học hầu hết cuối học kỳ I thì số học sinh đọc thuộc được câu ,bài khá rõ ,thậm chí nửa nhiều lớp còn đọc được các bài tập đọc trong chương trình lớp 1 , đọc mẫu chuyện ngắn , chuyện tranh vì thế kết quả kiểm tra cuối kỳ đạt kết quả cao cụ thể : Số lượng giỏi khá Trung bình yếu 24 10 8 5 1 Rõ ràng việc thay đổi hình thức dạy học mang lại một kết quả thật khả quan . Và khi đã có số lượng từ ngữ phong phú , giàu hình ảnh rồi thì các em sẽ mạnh dạn khi giao tiếp và biết dùng lời hay ý đẹp để giao tiếp với mọi người xung quanh. VI / Kết luận : Trên cơ sở thực hiện việc dạy học môn tiếng việt lớp một, bản thân giám mạnh dạn đưa ra một sáng kiến nhỏ về một phần nhỏ của bộ môn nhằm mục đích làm giàu thêm vốn từ ngữ cho các em ngay từ lớp đầu cấp tạo cơ sở cho các em học lên sau này. Không những thế , việc giúp học sinh lớp một tang nhanh vốn từ và hiểu nghĩa từ khi học môn tiếng việt còn giúp tôi: -Nắm được trình độ tiếp thu và chất lượng của học sinh lớp mình phụ trách. - Từ đó rút ra được biện pháp thiết thực để kèm các em trung bình và yếu. - Dần dần nâng cao chất lượng học tập của học sinh - Bài học sẽ gây nhiều hứng thú, học sinh hiểu được ngôn ngữ và ý nghĩa của từ. - Cũng từ đây học sinh phát huy trí tuệ một cách toàn diện và vô cùng phong phú . Trên đây là một số biện pháp tôi đề ra và đã thực hiện để giúp học sinh lớp một tăng nhanh vốn từ và hiểu nghĩa từ khi học môn tiếng việt . Mong được sự góp ý của BGH và các đồng nghiệp trong trường . Xin chân thành cảm ơn . Hậu Thành, ngày 18 tháng 5 năm 2010 Người viết Mai Thị Thanh

File đính kèm:

  • docSang kien KNMai Thanh.doc
Giáo án liên quan