Lưỡng Hà (Mésopotamie) nghĩa là miền giữa hai sông, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp mêđốt là ở giữa và pôtamốt là sông. Hai sông đó là sông Tigrơ ở phía Đông và Ơphrát ở phía Tây. Cả hai sông này đều bắt nguồn từ miền rừng núi Acmênia chảy qua lãnh thổ nước Irắc ngày nay rồi đổ ra vịnh Ba Tư (Pécxích).
Về mùa xuân, tuyết ở cao nguyên Acmênia tan làm nước ở hai sông Tigrơ và Ơphrát dâng cao gây nên lũ lụt làm ngập cả một vùng rộng lớn. Nhưng chính nhờ nước lụt, đất đai ở đây không ngừng được bồi đắp và trở nên mầu mỡ. Lượng phù sa ở đây nhiều đến nỗi, qua mấy nghìn năm, cả một vùng biển rộng lớn ở cửa sông này đã trở thành đồng bằng, bờ biển của vịnh Ba Tư phải lùi xa gấn 200km. Cũng vì vậy, hai dòng sông Tigrơ và Ơphrát vốn đổ ra biển bằng hai cửa sông khác nhau đã nhập lại thành một dòng trước khi ra biển. Chính nhờ có đất đai phì nhiêu như vậy nên cũng như Ai Cập cổ đại, khi công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ, kinh tế ở đây vẫn có điều kiện phát triển; do đó đã sớm bước vào xã hội văn minh.
3 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2777 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Văn minh Lưỡng Hà cổ đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ccát thuộc tộc Xêmit từ vùng thảo nguyên Xyri đến định cư ở miền Trung Lưỡng Hà. Tại đây họ đã lập nên quốc gia Accát nổi tiếng một thời. Cuối thiên kỉ III TCN, người Amôrít, một chi nhánh của người Xêmít cũng từ phía Tây tràn vào Lưỡng Hà. Chính họ đã thành lập quốc gia cổ Babilon nổi tiếng nhất trong lịch sử Lưỡng Hà cổ đại.
Ngoài ra còn có nhiều tộc người khác ở vùng lân cận cũng tràn vào Lưỡng Hà. Các tộc người trước sau tới Lưỡng Hã lại đồng hóa với nhau làm cho thành phần cư dân ở đây hết sức phức tạp.
Các quốc gia ở Lưỡng Hà cổ đại
1. Những nhà nước của người Xume
Vào khoảng đầu thiên kỉ III TCN, ở miền Nam Lưỡng Hà, nơi cư trú của người Xume, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, do sự phân hóa giàu nghèo, đã xuất hiện nhiều nhà nước nhỏ lấy một thành thị làm trung tâm gọi là những thành bang. Giữa các thành bang ấy thường diễn ra những cuộc đấu tranh để tranh giành đất đai và nguồn nước. Đến giữa thiên kỉ III, trong số các thành bang ở miền Nam Lưỡng Hà, nổi bật nhất là Lagát, nhưng sau đó không lâu, thành bang Umma ở phía Bắc đã đánh bại Lagát. Tiếp đó, Umma còn chinh phục được nhiều thành bang khác và thống nhất miền Nam Lưỡng Hà (cũng gọi là vùng Xume).
2. Accat
Thành bang Accat do một chi nhánh người Xêmit thành lập ở phía Bắc vùng Xume. Đến thời vua Xacgôn (2369-2314 TCN), Accat trở thành một quốc gia hùng mạnh. Xacgôn đã tấn công và chinh phục được toàn bộ vùng Xume và như vậy lần đầu tiên đã thống nhất cả vùng Lưỡng Hà. Tiếp đó, Accat còn chiếm được các khu vực xung quanh thành lập một quốc gia lớn mạnh ở Tây Á. Xacgôn tự xưng là “vua của bốn phương”. Tuy vậy, sự hùng mạnh của Accat cũng không duy trì được lâu. Đến cuối thế kỉ XXIII TCN, Accat bị người Guti ở Đông Bắc chinh phục và thống trị trong một thời gian khá dài.
3. Vương triều III của Ua (2132-2024 TCN)
Sau khi người Guti bị đánh đuổi, quyền thống trị ở Lưỡng Hà chuyển sang tay vương triều III của Ua, một thành bang cổ xưa của Xume. Phạm vi thống trị của vương triều này cũng rất rộng. Ua đã ban bố một bộ luật mà ngày nay đã phát hiện được một số đoạn. Đó là bộ luật cổ nhất trong lịch sử thế giới. Như vậy, dưới thời vương triều III, Ua đã trở thành một nước lớn mạnh ở Lưỡng Hà, nhưng đến cuối thế kỉ XXI TCN thì bị suy yếu và bị liên quân của Elam (một bộ tộc ở phía Đông) và Mari (một thành bang ở phía Bắc) đánh bại.
4. Cổ Babilon
Babilon là một thành phố do người Amôrit thành lập ở trung tâm Lưỡng Hà. Trong thời kì đầu, Babilon còn tương đối yếu, nhưng đến nửa đầu thế kỉ XVIII TCN, dưới thời vua Hammurabi (1792-1750 TCN), Babilon trở thành quốc gia hùng mạnh nổi tiếng nhất trong lịch sử Lưỡng Hà cổ đại. Hammurabi đã lần lượt đánh bại các thành bang xung quanh, thống nhất được hầu hết vùng Lưỡng Hà. Trên cơ sở đó, ông đã xây dựng bộ máy nhà nước chuyên chế tập quyền trung ương. Đặc bìệt, ông đã ban hành một bộ luật gọi là bộ luật Hammurabi. Đây là một bộ luật cổ được giữ lại tương đối nguyên vẹn.
Đến thời Babilon, kinh tế Lưỡng Hà có những tiến bộ rất đáng kể. Công cụ đồng thau được dùng phổ biến, sắt cũng đã xuất hiện nhưng còn tương đối hiếm. Cư dân Lưỡng Hà đă biết sử dụng cày có lưỡi đồng thau do bò kéo. Hơn nữa, họ còn biết sử dụng loại cày có lắp bộ phận gieo hạt.
Như vậy dưới thời Hammurabi, Babilon không những được ổn định vê chính trị mà kinh tế và văn hóa cũng rất phát triển. Nhưng sau khi Hammurabi chết, Babilon bị suy yếu dần. Trong vòng 1000 năm, tình hình Babilon rất rối ren, đồng thời nhiều lần bị ngoại tộc tấn công và thống trị. Đến năm 732 TCN, Babilon bị một quốc gia hùng mạnh ở phía Bắc là Atxiri xâm chiếm, đến năm 729 TCN thì trở thành một bộ phận của Atxiri.
5. Tân Babilon và Ba Tư
Từ giữa thế kỉ VII TCN, Atxiri bắt đấu suy yếu. Nhân tình hình ấy, năm 626 TCN, một viên tướng người Canđê, một chi nhánh của tộc Xêmit tên là Nabôpôlaxa, người được cử làm Tổng đốc của Atxiri ở miền Nam Lưỡng Hà đã tuyên bố Babilon độc lập. Để phân biệt với Cổ Babilon, quốc gia này được gọi là Tân Babilon.
Ngay sau đó, Tân Babilon liên minh với nước Mêđi ở phía Đông Bắc cùng tấn công Atxiri. Năm 605, Atxiri diệt vong. Đất đai của Atxiri bị chia làm hai phần: nửa phía Bắc thuộc về Mêđi, nửa phía Nam thuộc về Babilon. Để tăng thêm tình hữu nghị giữa hai nước đồng minh, Nabôpôlaxa đã hỏi công chúa Mêđi cho con trai của mình là Nabusôđênôxo. Năm 604 TCN, Nabôpôlaxa chết, Nabuxôđônôxo lên nối ngôi. Đây là thời ki cường thịnh nhất của Tân Babilon. Chính Nabusôđônôxo đã ra lệnh xây vườn hoa trên không nổi tiếng.
Năm 562 TCN, Nabusôđônôxo chết. Từ đó tình hình nội bộ Tân Babilon không được ổn định. Trong khi đó, ở Iran bắt đầu xuất hiện nước Ba Tư hùng mạnh. Năm 550 TCN, Ba Tư đánh bại Mêđi, Babilon cũng trở thành mục tiêu chinh phục của Ba Tư. Năm 538 TCN, quân Ba Tư tấn công và chiếm được thành Babilon. Tân Babilon cũng trở thành một bộ phận của đế quốc Ba Tư.
Năm 328 TCN, đế quốc Ba Tư bị Alêchxăngđrơ Makêđônia tiêu diệt. Cả Tây Á bị nhập vào đế quốc Makêđônia. Sau khi Alêchxăngđrơ chết, đế quốc Makêđônia bị phân chia, Babilon nằm trong vương quốc của Xêlơcut, một tướng của Alêchxăngđrơ.
Những thành tựu chủ yếu của văn minh Lưỡng Hà cổ đại
1. Chữ viết, văn học
Chữ viết Từ cuối thiên niên kỉ IV đầu thiên niên kỉ III TCN, người Lưỡng Hà đã sáng tạo ra chữ tượng hình. Đầu tiên chữ viết của họ là những hình vẽ, về sau họ đơn giản thành những nét vạch có ý nghĩa tượng trưng cho một hình vẽ nào đó. Họ thường dùng đầu cây sậy vót nhọn vạch lên những tấm đất sét còn mềm để lại dấu vết như hình những chiếc đinh. Vì vậy người ta hay gọi là chữ hình đinh, chữ hình góc, hay chữ tiết hình. Ngày nay, người ta còn lưu giữ được khoảng 2200 tấm sách bằng đất sét ở nhà bảo tàng của thành phố Ninivơ (kinh đô của đế quốc Atxiri xưa kia). Chữ tiết hình do người Sumer phát minh ra đầu tiên, về sau nhiều dân tộc ở Lưỡng Hà đều sử dụng và có biến đổi. Chữ tiết hình trở thành thứ chữ để giao tiếp giữa các dân tộc ở Tây Á thời cổ đại. Về sau, người Phênixi, một dân tộc chuyên buôn bán quanh Địa Trung Hải thời đó đã dựa vào chữ hình góc của người Lưỡng Hà, một phần chữ tượng hình của người Ai Cập cổ đã đặt ra hệ thống chữ cái A, B... Từ chữ Phênixi đã hình thành ra chữ Hy Lạp cổ. Từ chữ Hy Lạp cổ đã hình thành ra chữ Latinh và chữ Slavơ và từ đó hình thành nên chữ viết của nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay.
Văn học Các thể loại văn học chính ở Lưỡng Hà thời cổ thường là các thần thoại, anh hùng ca. Tiêu biểu là các truyện Khai thiên lập địa, Nạn hồng thuỷ, Gingamet.
2. Tôn giáo
Thời kì đầu người Lưỡng Hà theo đa thần giáo, mỗi nơi có một vị thần riêng. Có nơi cùng một lúc thời nhiều thần. Họ thời các lực lượng tự nhiên như thần Trời (Anu), thần Mặt Trời (Samat), thần Đất (Enlin), thần Biển (Ea), thần Ái Tình (Istaro)... Về sau, cùng với sự xác lập quyền lực tối cao của hoàng đế, thần Macđúc (Mardouk) đã trở thành vị thần chung cho toàn đế quốc. Thần Samat được coi là con của thần Mặt Trăng (vì người Sumer cho rằng ngày là do đêm sinh ra), Samat chuyên chịu trách nhiệm về tư pháp (Trên cột đá ghi bộ luật của Hammurabi có khắc hình thần Samat đang trao bộ luật cho Hamurabi để vua thay thần trị dân).
3. Nhà nước và pháp luật
Nhà nước ban đầu của người Sumer được tổ chức theo chế độ quân chủ chuyên chế, đứng đầu là nhà vua được gọi là Patêsi nắm tất cả các quyền lực tối cao, lời nói của vua là luật pháp. Đến thời vương quốc Hammurabi thì tổ chức bộ máy nhà nước tương đối hoàn thiện.
Thế kỉ XVIII TCN, dưới thời Hammrabi ông cũng cho ra đời một bộ luật, bộ luật này gồm 282 điều khoản, được khắc trên một tấm đá cao 2m25, rộng 2m. Đây là bộ luật cổ nhất thế giới mà con người ngày nay biết được.
4. Nghệ thuật, kiến trúc
Ở Lưỡng Hà ít gỗ đã, các công trình kiến trúc ở đây phần lớn được xây dựng bằng gạch nhưng cũng rất nguy nga, hùng vĩ. Nổi bật nhất trong nghệ thuật kiến trúc Lưỡng Hà là thành cổ Babilon và vườn treo Babilon được xây dựng vào khoảng thế kỉ VII TCN.
Thành Babilon (ở phía nam Batđa ngày nay)được xây bằng gạch có chu vi 16km, cao 30m, dày từ 6m đến 8,5m và có 7 cửa. Cổng thành Isơta được bọc đồng và trang trí bằng những bức phù điêu rất sinh động.
Vườn treo Babilon được người Hy Lạp cổ đại xếp vào một trong bảy kì quan thế giới. Đây là một khu vườn được xây vươn lên trời xanh, cao 77m và gồm có 4 tầng. Trên mỗi tầng có trồng những loại hoa thơm cỏ lạ sưu tầm từ Ai Cập tới Ấn Độ. Nước chảy róc rách, cây xanh mát mắt, chim hót véo von. Tây Á cảnh quan phần lớn là núi và sa mạc, những đoàn lái buôn trên “con đường tơ lụa” khi đi đến đây thì thật là gặp cảnh thiên đường dưới hạ giới.
5. Khoa học tự nhiên
Toán học Ban đầu người Sumer sử dụng hệ đếm cơ số 5, về sau nhiều tộc người ở Lưỡng Hà sử dụng đồng thời cả cơ số 10 và cơ số 60. Ngày nay, chúng ta còn chịu ảnh hưởng của họ qua việc chia độ trên vòng tròn và chia thời gian.
Hình học Người Lưỡng Hà cổ đã biết tính diện tích các hình hình học đơn giản, đã biết về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác vuông. Họ đã biết tính phân số, lũy thừa, khai căn bậc 2 và căn bậc 3; đặc biệt là họ đã giải được phương trình 3 ẩn số.
Thiên văn học Người Lưỡng Hà cổ lập ra khá nhiều đài để quan sát thiên văn, các nhà thiên văn hồi đó còn là các nhà chiêm tinh học. Họ cũng chia bầu trời làm 12 cung hoàng đạo, đã tính trước được nhật thực và nguyệt thực. Họ làm ra lịch dựa vào Mặt Trăng, một năm của họ cứ một tháng 29 ngày lại một tháng 30 ngày. Như vậy sau 12 tháng chỉ có 354 ngày, còn thiếu so với năm dương lịch. Để khắc phục hạn chế này, người ta đã biết thêm vào tháng nhuận.
Y học Người Lưỡng Hà đã biết cách chữa trị các bệnh khác nhau về tiêu hóa, thần kinh, hô hấp và đặc biệt là bệnh về mắt. Y học đã chia thành nội khoa, ngoại khoa, họ cũng đã biết giải phẫu. Thần bảo trợ cho Y học là thần Ninghizita với hình tượng con rắn quấn quanh cây gậy mà ngày nay ngành y ở một số nước vẫn lấy làm biểu tượng.
(Nguồn:
- “Lịch sử văn minh thế giới”
Tác giả: Vũ Dương Ninh - Nguyễn Gia Phu
Nguyễn Quốc Hùng - Đinh Ngọc Bảo
Nhà xuất bản Giáo dục
- “Lịch sử văn minh thế giới”
Biên soạn: Đoàn Trung)
File đính kèm:
- Van minh Luong Ha co dai.doc