Tìm hiểu Nhà Hậu Lê

 Nhà Hậu Lê hoặc Hậu Lê triều (Hán-Nôm: (nhà Hậu LêHậu Lê triều), 1418 – 1527, 1533 – 1789) là một triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, được thành lập sau khi vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi) lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân Minh.

Nhà Hậu Lê gồm hai giai đoạn: Lê sơ (1428-1527) và Lê trung hưng (1533-1789).

Thời Lê sơ (1428-1527)

Thời Lê sơ kéo dài đúng 100 năm, có 10 vua thuộc 6 thế hệ.

Xây dựng đất nước

Giai đoạn đầu là thời kỳ xây dựng lại đất nước sau thời bị nhà Minh đô hộ. Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ nhanh chóng bắt tay vào xây dựng đất nước bị tàn phá qua nhiều năm chiến tranh.

Sang thời Lê Thánh Tông, vua tiến hành một loạt cải cách đưa Đại Việt bước vào thời kỳ phát triển thịnh trị được coi là hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam. (xem chi tiết bài Lê Thánh Tông)

 

doc17 trang | Chia sẻ: donghaict | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu Nhà Hậu Lê, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài năng của Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, quân nhà Lê dần dần thắng thế. Năm 1592, quân Nam triều chiếm được Thăng Long, họ Mạc bỏ chạy lên cát cứ ở Cao Bằng. Khoanh tay rủ áo Sau cái chết của vua Anh Tông, cháu vua là Lê Kính Tông (Duy Tân - con vua Thế Tông) cũng có ý định chống Trịnh Tùng và cũng bị thắt cổ năm 1619. Kể từ đó các vua Lê hoàn toàn “khoanh tay rủ áo”, như cách nói của các sử gia đương thời, đối với chính sự. Mọi công việc từ trị sự đến quân sự đều do chúa Trịnh đảm đương. Khi kinh thành được khôi phục, ngoài cung vua phía đông còn có phủ chúa ở phía tây. Vì vậy, mọi thành tựu, sự kiện, từ quân sự đến xã hội, thịnh trị hay rối ren, đều do tay họ Trịnh. Các chúa Trịnh đều là những người giỏi cai trị và ngoại giao nên tình hình Bắc Hà - khi họ Nguyễn đã cát cứ trong Nam - nhìn chung ổn định. Chẳng những việc chính sự mà ngay cả chuyện vợ con của các vua Lê cũng do các chúa Trịnh sắp đặt. Phần nhiều vợ các vua Lê là con gái họ Trịnh để ràng buộc. Sau Kính Tông, trong một thời kỳ dài không có vua Lê nào chống đối họ Trịnh. Tuy nhiên, các tôn thất không phải hoàn toàn chịu mất quyền, điển hình là Lê Duy Mật và thái tử Duy Vĩ. Lê Duy Mật định làm binh biến ở Thăng Long lật đổ họ Trịnh nhưng không thành nên trốn ra ngoài khởi nghĩa, cát cứ ở Trấn Ninh 30 năm trời. Thái tử Duy Vĩ (con vua Hiển Tông) cũng muốn khôi phục quyền cho nhà Lê nhưng bị chúa Trịnh Sâm giết năm 1771. Các vua Chân Tông, Huyền Tông, Gia Tông đều là vua thiếu niên và mất sớm. Các vua Thế Tông, Thần Tông, Dụ Tông, Hy Tông, Thuần Tông và nhất là Hiển Tông (Cảnh Hưng) sau này là những ông vua “khoanh tay rủ áo” như vậy. Khi Nguyễn Huệ ra bắc dẹp họ Trịnh (1786), vua Hiển Tông than thở: “Trời sai nhà chúa phò ta. Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui. Mất chúa, tức là cái lo lại về ta, ta còn vui gì”. Câu nói đó phản ánh tư tưởng an phận giữ mình của các vua Lê. Nhà Lê kết thúc Sau khi Hiển Tông mất, đúng lúc Tây Sơn rút về nam. Cháu vua là Duy Kỳ (con Duy Vĩ) lên thay, tức là vua Chiêu Thống. Được tác động của anh em Tây Sơn, vua Lê muốn khôi phục lại địa vị cũ, báo thù cho cha, nên khi họ Trịnh ngóc đầu trở lại, lập tức Chiêu Thống gọi tướng giỏi nhất Bắc Hà lúc đó là Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An ra cứu. Chỉnh đánh tan quân Trịnh, đuổi Trịnh Bồng đi mất tích. Nhưng sau đó vua Lê lại bị Chỉnh lộng quyền. Tây Sơn kéo ra giết Chỉnh, rồi tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm cũng mưu đồ cát cứ. Chiêu Thống phải bỏ đi lưu vong. Bản ý của Nguyễn Huệ vẫn muốn tôn phò nhà Lê, nhưng Chiêu Thống lại không muốn sống chung với Tây Sơn nên sang cầu viện nhà Thanh (1788). Nhà Thanh phát binh đánh Việt Nam. Trước tình thế đó, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, tức là vua Quang Trung mang quân đánh tan quân Thanh (1789), Chiêu Thống bỏ chạy theo về Trung Quốc. Dù sau đó Lê Duy Kỳ cố xin viện binh lần nữa nhưng bằng chính sách ngoại giao khéo léo, nhà Tây Sơn đã tránh được cuộc đụng đầu khác với nhà Thanh. Vua Thanh không phát binh nữa, phân tán các bầy tôi nhà Lê, tách khỏi Duy Kỳ để cô lập dần. Duy Kỳ uất hận chết ở Bắc Kinh năm 1792 lúc mới 28 tuổi. Nhà Hậu Lê chính thức mất năm 1789, trước sau tồn tại 355 năm, chỉ có 6 năm gián đoạn, là triều đại phong kiến dài nhất trong lịch sử Việt Nam (không tính Hồng Bàng). Nhận định Công lao, thành tựu Giống như Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, nhà Hậu Lê lên cầm quyền ở Việt Nam nhờ công đánh đuổi người phương Bắc để giành lại nước. Nhưng khác với thế hệ trước, nhờ có cơ sở vững chắc 470 năm liên tục (938-1407) do các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần trước đó tạo dựng nên thành quả đánh ngoại xâm của nhà Hậu Lê được giữ gìn trong thời gian dài. Nước Đại Việt thời nhà Hậu Lê tồn tại được 360 năm (1428-1788). Các vua đầu thời Lê như Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông đều là những vị vua giỏi, đặc biệt là Thánh Tông, đã đưa Việt Nam tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Chẳng những có thành tựu về chính trị, kinh tế mà cả giáo dục và nhất là quân sự khiến nước Đại Việt được mở mang tới phía bắc Nam Trung Bộ. Cũng chính cuộc tấn công của vua Lê Thánh Tông đánh dấu bước khởi đầu cho sự diệt vong của nước Chiêm Thành mà các chúa Nguyễn sau này hoàn thành. Dù trong cung đình nhà Lê luôn có biến, nhiều việc khuynh loát, tranh quyền xảy ra nhưng chính sách đối nội, đối ngoại không thay đổi, đời sống nhân dân được đảm bảo nên nước Đại Việt vẫn phát triển vững mạnh. Ngay thời Nhân Tông, dù vua còn nhỏ và Nguyễn Thái hậu chấp chính nhưng vẫn không gây xáo trộn xã hội, nhân dân không bị điêu đứng như thời Uy Mục, Tương Dực sau này. Chính thống, ngụy triều Lê Hiến Tông đã đúng khi chọn Túc Tông Thuần là người kế nghiệp nhưng vua này lại yểu mệnh và có lẽ đó là bước ngoặt đầu tiên của nhà Hậu Lê. Uy Mục tàn ác, Tương Dực xa hoa trụy lạc, Chiêu Tông thiếu sáng suốt. Cả ba vua đều không đủ năng lực và quyền thần nổi lên nắm quyền như một lẽ tất yếu khi đất nước có biến loạn. Nếu không có Mạc Đăng Dung thì những quyền thần khác cũng làm điều tương tự, mà trong đó Trịnh Duy Sản, Trịnh Tuy, Nguyễn Hoằng Dụ, Trần Chân là những đại diện. Nhà Lê dài 350 năm nhưng thực tế chỉ tồn tại trong gần 100 năm đầu. Sau khi nhà Lê mất về tay nhà Mạc, vấn đề chính thống và ngụy triều nổ ra trong cuộc đấu tranh giữa các tập đoàn và khi thế nam - bắc này chưa chấm dứt hẳn thì thế nam - bắc khác lại hình thành. Cũng như thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc, khi nhà Hán suy, các chư hầu nổi dậy đều lấy danh nghĩa giúp nhà Hán; tại nước Đại Việt khi đó cả Trịnh và Nguyễn đều danh nghĩa chống Mạc để giúp nhà Lê. Các vua Lê vẫn có ngôi, có hiệu, có tên trong sử sách, nhưng chỉ ngồi làm vì. Trên thực tế không chỉ 16 vua thời Lê trung hưng mà ngay từ khi Cung Hoàng được lập, nhà Lê đã chỉ còn hư vị. Trịnh và Nguyễn cùng giương cờ “Phù Lê diệt Mạc”, Tây Sơn giương cờ “Phù Lê diệt Trịnh”. Giáo sư sử học Văn Tạo trong tạp chí "Nghiên cứu lịch sử" có bài viết “Nhà Mạc và vấn đề ngụy triều”, trong đó nêu rõ: Mạc là ngụy công khai, Trịnh và Nguyễn là ngụy giấu mặt. Việc vua Chiêu Thống đã lên ngôi thay vua Cảnh Hưng năm 1786 nhưng Nguyễn Ánh, với danh nghĩa “phò Lê”, song vẫn nhất định dùng niên hiệu Cảnh Hưng đến tận năm 1801 đủ cho thấy trong lòng Ánh có nhà Lê hay không. Việc Nguyễn Ánh gửi gạo ra bắc giúp quân Thanh thực ra là muốn thêm người đánh Tây Sơn chứ không thực bụng giúp nhà Lê. Nhà Lê chống ngoại xâm thành công mà trở thành nhà cầm quyền Đại Việt nhưng kết cục, vua cuối cùng của nhà Lê là Lê Chiêu Thống lại không giống những vua Việt Nam vì chống ngoại xâm thất bại mà phải chết ở đất khách quê người như Hậu Lý Nam Đế, Khúc Thừa Mỹ, Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Trần Ngỗi, Hàm Nghi, Duy Tân, v.v... Các vua nhà Hậu Lê Nhà Lê sơ Miếu hiệu Thụy hiệu Tên húy Năm Niên hiệu Lăng Thái Tổ Thống Thiên Khải Vận Thánh Đức Thần Công Duệ Văn Anh Vũ Khoan Minh Dũng Trí Hoàng Nghĩa Chí Minh Đại Hiếu Cao hoàng đế Lê Lợi 1428-1433 Thuận Thiên Vĩnh Lăng Thái Tông Kế Thiên Thể Đạo Hiển Đức Thánh Công Khâm Minh Văn Tư Anh Duệ Triết Chiêu Hiến Kiến Trung Văn hoàng đế Lê Nguyên Long 1433-1442 Thiệu Bình (1434-1439) Đại Bảo (1440-1442) Hựu Lăng Nhân Tông Khâm Văn Nhân Hiếu Tuyên Minh Thông Duệ Tuyên hoàng đế Lê Bang Cơ 1442-1459 Thái Hòa (1443-1453) Diên Ninh (1454-1459) Nguyên Lăng Không có Lệ Đức hầu Lê Nghi Dân 1459-1460 Thiên Hưng (1459-1460) Không có Thánh Tông Sùng Thiên Quảng Vận Cao Minh Quang Chính Chí Đức Đại Công Thánh Văn Thần Vũ Đạt Hiếu Thuần hoàng đế Lê Tư Thành (Lê Hạo) 1460-1497 Quang Thuận (1460-1469) Hồng Đức (1470-1497) Chiêu Lăng Hiến Tông Thể Thiên Ngưng Đạo Mậu Đức Chí Chiêu Văn Thiệu Vũ Tuyên Triết Khâm Thành Chương Hiếu Duệ hoàng đế Lê Sanh[29] (Lê Tăng)[30] (Lê Huy)[30] 1497-1504 Cảnh Thống Dụ Lăng Túc Tông Chiêu Nghĩa Hiển Nhân Ôn Cung Uyên Mặc Hiếu Doãn Cung Khâm hoàng đế Lê Thuần 1504 Thái Trinh Kinh Lăng Uy Mục Uy Mục Đế Lê Tuấn (Lê Huyên) 1505-1509 Thái Trinh Đoan Khánh An Lăng Tương Dực Tương Dực Đế Lê Oanh 1510-1516 Hồng Thuận Nguyên Lăng Không có Không có Lê Quang Trị[31] 1516 Chiêu Tông Thần hoàng đế Lê Y (Lê Huệ) 1516-1522 Quang Thiệu Vĩnh Hưng Cung Hoàng Cung hoàng đế Lê Xuân (Lê Lự) 1522-1527 Thống Nguyên Hoa Dương Nhà Lê Trung hưng Miếu hiệu Thụy hiệu Tên húy Năm Niên hiệu Lăng Trang Tông Dụ hoàng đế Lê Duy Ninh 1533-1548 Nguyên Hoà Cảnh Lăng Trung Tông Vũ hoàng đế Lê Duy Huyên 1548-1556 Thuận Bình Diên Lăng Anh Tông Tuấn hoàng đế Lê Duy Bang 1556-1573 Thiên Hựu (1557) Chính Trị (1558-1571) Hồng Phúc (1572-1573) Bố Vệ Lăng Thế Tông Nghị hoàng đế Lê Duy Đàm 1573-1599 Gia Thái (1573-1577) Quang Hưng (1578-1599) chưa biết Kính Tông Huệ hoàng đế (Giản hoàng đế)[32] Lê Duy Tân 1600-1619 Thuận Đức (1600) Hoằng Định (1601-1619) Hoa Loan Lăng (Bố Vệ Lăng)[32] Thần Tông (lần 1) Uyên hoàng đế Lê Duy Kỳ 1619-1643 Vĩnh Tộ (1620-1628) Đức Long (1629-1634) Dương Hoà (1634-1643) Quần Ngọc Lăng Chân Tông Thuận hoàng đế Lê Duy Hựu 1643-1649 Phúc Thái Hoa Phố Lăng Thần Tông (lần 2) Uyên hoàng đế Lê Duy Kỳ 1649-1662 Khánh Đức (1649-1652) Thịnh Đức (1653-1657) Vĩnh Thọ (1658-1661) Vạn Khánh (1662) Quần Ngọc Lăng Huyền Tông Mục hoàng đế Lê Duy Vũ 1663-1671 Cảnh Trị Quả Thịnh Lăng Gia Tông Mỹ hoàng đế Lê Duy Cối (Lê Duy Khoái) 1672-1675 Dương Đức (1672-1673) Đức Nguyên (1674-1675) Phúc An Lăng Hy Tông Chương hoàng đế Lê Duy Cáp (Lê Duy Hiệp) 1675-1705 Vĩnh Trị (1678-1680) Chính Hoà (1680-1705) Phú Lăng Dụ Tông Hòa hoàng đế Lê Duy Đường 1706-1729 Vĩnh Thịnh (1706-1719) Bảo Thái (1720-1729) Cổ Đô Lăng, sau chuyển sang Kim Thạch Lăng Duy Phường Bị phế thành Hôn Đức Công Lê Duy Phường 1729-1732 Vĩnh Khánh Kim Lũ Thuần Tông Giản hoàng đế Lê Duy Tường 1732-1735 Long Đức Bình Ngô Lăng Ý Tông Huy hoàng đế Lê Duy Thận (Lê Duy Chấn) 1735-1740 Vĩnh Hựu Phù Lê Lăng Hiển Tông Vĩnh hoàng đế Lê Duy Diêu 1740-1786 Cảnh Hưng Bàn Thạch Lăng Chiêu Thống Mẫn Đế Lê Duy Khiêm (Lê Duy Kỳ)[33] 1786-1788 Chiêu Thống Bàn Thạch Lăng

File đính kèm:

  • docNHA HAU LE.doc
Giáo án liên quan