I. Bản chất của phương pháp dạy học tích cực trong dạy Học toán ở tiểu học
Phương pháp dạy học tích cực là một hệ thống phương pháp tác động liên tục của giáo viên nhằm khêu gợi tư duy học sinh, tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh theo quy trình. Phương pháp này, tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh đều tham gia tích cực vào quá trình dạy học, học sinh được tiếp cận kiến thức bằng hoạt động làm bài tập, học sinh được làm việc cá nhân hoặc theo nhóm, trao đổi, hợp tác với bạn với thầy.
6 trang |
Chia sẻ: ngocnga34 | Lượt xem: 770 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy học bàI “chu vi hình tròn” (Sách giáo khoa toán 5, trang 134), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vận dụng phương pháp dạy học tích cực
trong dạy học bàI “chu vi hình tròn”
(Sách giáo khoa toán 5, trang 134)
I. Bản chất của phương pháp dạy học tích cực trong dạy Học toán ở tiểu học
Phương pháp dạy học tích cực là một hệ thống phương pháp tác động liên tục của giáo viên nhằm khêu gợi tư duy học sinh, tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh theo quy trình. Phương pháp này, tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh đều tham gia tích cực vào quá trình dạy học, học sinh được tiếp cận kiến thức bằng hoạt động làm bài tập, học sinh được làm việc cá nhân hoặc theo nhóm, trao đổi, hợp tác với bạn với thầy.
Trong phương pháp dạy học tích cực:
- Giáo viên giữ vai trò chủ đạo, tổ chức các tình huống học tập, hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề, khẳng định kiến thức mới trong vốn tri thức của học sinh, đảm bảo an toàn của quá trình dạy học.Vì vậy, nói chung, giáo viên nói ít, giảng giải ít nhưng lại thường xuyên làm việc với từng nhóm học sinh hoặc từng học sinh. Đòi hỏi giáo viên phải biết cách tổ chức các hoạt động của học sinh, đồng thời phải có một tri thức vượt ra ngoài lĩnh vực hạn chế của bộ môn mình dạy để có thể làm chủ nội dung và nghệ thuật dạy. Cách dạy như thế giúp giáo viên nắm được khả năng học của từng học sinh từ đó có thể giúp học sinh phát triển năng lực, sở trường cá nhân.
- Học sinh là chủ thể nhận thức, phải chủ động, độc lập suy nghĩ, làm việc tích cực và biết tự học, tự chiếm lĩnh tri thức từ nhiều nguồn khác nhau dưới sự theo dõi, hướng dẫn của giáo viên. Cách học này sinh tạo cho học sinh thói quen làm việc tự giác, chủ động không rập khuôn, biết tự đánh giá và đánh giá kết quả học tập của mình, của bạn, đặc biệt là tạo niềm vui, niềm tin trong học tập.
Như vậy, học sinh trở thành trung tâm của quá trình dạy học nghĩa là học sinh phải hoạt động nhiều, hoạt động để đạt được các yêu cầu của bài học. Giáo viên và học sinh trở thành những người cộng tác thực sự trong cùng một công việc: cả hai cùng đi trên con đường học theo phương pháp riêng của mỗi người.
- Ngoài việc quan tâm tới vai trò của giáo viên và học sinh, phương pháp tích cực còn quan tâm đến cả yếu tố môi trường (cơ sở vật chất, tâm tư tình cảm, tính cách...), bởi vì môi trường ảnh hưởng đến phương pháp học và phương pháp sư phạm và giữa chúng có sự tác động tương hỗ.
Tóm lại, phương pháp dạy học tích cực tập trung trước hết vào học sinh và căn bản dựa trên những tác động qua lại tồn tại giữa giáo viên, học sinh và môi trường. Giáo viên giữ vai trò là người tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh; học sinh phải hoạt động một cách chủ động, tích cực, tự giác dưới sự hướng dẫn, tổ chức của giáo viên; môi trường hưởng đến giáo viên, học sinh, phương pháp học, phương pháp dạy.
II. Cách thiết kế bài "chu vi hình tròn " trong sách giáo khoa toán 5
1. Tóm tắt nội dung bài dạy:
Trong sách giáo khoa toán 5 trình bày nội dung bài dạy như sau:
Đầu tiên sách giáo khoa đưa ra một ví dụ, giáo viên hướng dẫn cho học sinh đo chu vi một hình tròn bán kính 2cm bằng bìa cứng, bằng cách cho hình tròn lăn một vòng trên thước (hình vẽ)
Chu vi hình tròn
Đường kính
A
A
Đường kính
Đường kính
Đường kính
A
A
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14
Kết quả đo: hình tròn có chu vi trong khoảng 12,5cm đến 12,6cm.
Sau đó sách giáo khoa chốt lại: "trong toán học người ta có thể tính chu vi hình tròn có đường kính 4cm bằng cách nhân đường kính 4cm với 3,14:
4x 3,14 =12,56 (cm)"
Và đưa ra công thức tính chu vi hình tròn:
C=d x 3,14 hoặc C=r x 2 x 3,14.
2. Một số hạn chế.
- Cách xây dựng công thức tính như thế vẫn áp đặt.
- Chưa tạo được mối quan hệ chặt chẽ giữa bước đo chu vi đường tròn với bước đưa ra công thức tính chu vi.
- Việc đưa ra công thức tính dựa trên một ví dụ chưa có độ tin cậy cao.
iiI. thiết kế bàI dạy ”chu vi hình tròn” theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học
Tùy vào tính chất của từng loại bài dạy, giáo viên có thể xây dựng quy trình trình các bước vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào trong quá trình dạy học của mình. Dạy học bài “chu vi hình tròn” có thể tiến hành theo quy trình sau:
Bước1: Nêu nhiệm vụ nhận thức nhằm định hướng sự chú ý học sinh.
Trong bước này, việc xây dựng tình huống có vấn đề hay chọn sự kiện mở đầu rất quan trọng. Mục đích là nhằm tạo những tình huống có vấn đề, sự khó khăn nhất định về mặt nhận thức đối với vấn đề đó, làm xuất hiện mâu thuẫn trong nhận thức của học sinh, từ đó làm nảy sinh nhu cầu cần được giải quyết.
Bước 2: Hành động với đồ vật kết hợp với quan sát
Trong bước này, học sinh được hành động với đồ vật kết hợp với quan sát để tìm mối quan hệ nhằm giải quyết nhiệm vụ đặt ra, giáo viên nên khuyến khích học sinh mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ riêng của mình nhằm phát huy tính độc lập, sáng tạo, tạo tâm lý phấn khởi, tự tin.
Bước 3: Khái quát hóa các dấu hiệu chung để hình thành khái niệm
Bước này đòi hỏi học sinh phải biết tổng hợp hóa, khái quát hóa những dấu hiệu chung, bản chất để hình thành khái niệm.
Bước 4: Củng cố và kiểm tra nhận thức của học sinh
Sau khi hình thành xong khái niệm, giáo viên chốt lại nội dung chính của bài học và ra những bài tập, yêu cầu học sinh phải vận dụng khái niệm mới để kiểm tra việc nắm khái niệm của các em.
Cụ thể: Có thể vận dụng phương pháp dạy học tích cực để thiết kế bài “Chu vi hình tròn” (SGKtoán 5,trang 134) theo quy trình bốn bước như sau:
I. Chuẩn bị
- Mỗi học sinh (hoặc mỗi nhóm) một hình tròn bằng bìa hoặc giấy hoặc bằng nhựa...
- Thước đo độ dài
II. Xây dựng công thức tính.
Bước 1 : Nêu nhiệm vụ nhận thức nhằm định hướng sự chú ý của học sinh.
Có thể nêu như sau:
- Cho học sinh nhắc lại cách tính công thức tính chu vi của các hình đã học.
- Giáo viên đặt vấn đề: muốn biết công thức tính chu vi hình tròn như thế nào, trước hết cô mời các em hãy lấy các hình tròn đã chuẩn bị và đo chu vi
các hình tròn đó cho cô.
Bước 2: Hành động với đồ vật kết hợp với quan sát để xây dựng công thức tính.
Hoạt động 1:
Cho học sinh tiến hành đo chu vi hình tròn đã chuẩn bị. ở đây, giáo viên có thể cho học sinh tự đo theo cách riêng của mình: có thể cho lăn trên thước như trong sách giáo khoa hoặc có thể dùng thước dây quấn xung quanh hình tròn để đo, hoặc cho lăn trên mép bàn rồi đo...
Hoạt động 2:
Đo đường kính hình tròn tương ứng.
Hoạt động 3:
Chia số đo chu vi của đường tròn cho số đo đường kính của nó và yêu cầu các cá nhân (hoặc các nhóm) báo cáo kết quả của phép chia.
Kết quả của phép chia đó là: 3 hoặc 3,15 hoặc 3,2...
Bước 3: Khái quát hóa các dấu hiệu chung để hình thành khái niệm.
Hoạt động 1:
Sau khi học sinh báo cáo kết quả, giáo viên tổng kết: các nhà toán học đã tính được một cách gần như chính xác tỉ số đó là 3,14.
Hoạt động 2:
Học sinh tự rút ra công thức:
C/d = 3,14 suy ra C = d x 3,14 hoặc C = r x 2 x 3,14
Bước 4: Củng cố và kiểm tra nhận thức của học sinh.
Trong bước này, đầu tiên giáo viên tổng kết rồi sau đó yêu cầu một số học sinh nhắc lại công thức, quy tắc tính chu vi hình tròn và sau đó cho học sinh làm các bài tập để kiểm tra nhận thức của các em.
IV. Nhận xét
Việc dạy học theo mô hình trên có những ưu điểm sau:
- Dưới sự hướng dẫn của giáo viên và bằng hoạt động của mình, học sinh tự mình phát hiện ra kiến thức.
- Cách học thành như thế sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh.
- Học sinh tự hoạt động để phát hiện ra kiến thức nên các em rất phấn khởi và khắc sâu được kiến thức bài học.
- Việc xuất hiện số 3,14 từ nhiều phép chia trên các hình tròn khác nhau có độ tin cậy hơn so với một trường hợp như trong sách giáo khoa.
- Cách thức này phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh: tiếp thu tri thức thông qua con đường thực hành - luyện tập.
Bài dạy này tôi đã cho một số giáo viên thử nghiệm trên một số lớp ở thành phố Vinh và thị xã Hà Tĩnh. Kết quả là học sinh rất hồ hởi, tích cực hoạt động và tiếp thu tốt nội dung bài học còn giáo viên hài lòng với cách dạy của mình.
Tài liệu tham khảo
1. Phạm Gia Đức-Nguyễn Mạnh Cảng-Bùi Huy Ngọc. Phương pháp dạy học môn toán (Giáo trình cao đẳng sư phạm). NXB Giáo dục-1998.
2. Kiều Đức Thành (chủ biên)-Hoàng Ngọc Hưng-Lê Tiến Thành-Nguyễn Văn Tuấn. Một số vấn đề về nội dung và phương pháp dạy học môn toán tiểu học (Sách bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ1997-2000 cho giáo viên tiểu học). NXB Giáo dục.
3.Phạm Văn Hoàn- Đỗ Trung Hiệu - Đỗ đình Hoan - Đào Nãi - Vũ Dương Thụy.Toán 5. NXB Giáo dục, H.1999.
4.Jean-Marc Denommé et Madeleine Roy. Tiến tới một phương pháp sư phạm tương tác (tài liệu dịch). NXB Thanh niên, 2000.
File đính kèm:
- iKKN lop 5 hay.doc