Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng hệ thống câu hỏi “Tích hợp” trong giảng văn THCS - Bùi Thanh Hải

Học sinh khối 9 trường THCS Tuân Đạo cũng như học sinh khối 9 cả nước là khoá học được tiếp tục áp dụng học tập theo chương trình sách giáo khoa mới. Chính vì lẽ đó đây là khoá học sinh được chú ý nhất, được rèn luyện “bài bản” về phương pháp học tập mới. Thực tế qua ba năm học trước các em đã quen với cách học “Tích hợp” nhưng nếu đến lớp 9 người thầy giáo không chú ý thì cũng không thể tiếp tục rèn luyện ở các em những gì đã tích luỹ được ở ba lớp dưới. Ngay từ đầu năm học để áp dụng tốt hệ thông câu hỏi “Tích hợp” tôi đã phân ra các đối tượng học sinh: Giỏi – Khá - Trung bình – Yếu ở lớp 9A nhằm mục đích áp dụng câu hỏi từ dễ đến khó cho phù hợp cụ thể với các dạng câu hỏi.

1. Dành cho học sinh yếu

2. Dành cho học sinh trung bình.

3. Dành cho học sinh khá - giỏi.

Sau khi điều tra áp dụng câu hỏi trong những bài học đầu năm số liệu cụ thể được thống kê.

 - Học sinh trả lời được câu hỏi: 3 em đạt: 11,1 %

 - Học sinh trả lời đúng một phần câu hỏi : 15 em đạt 55,6 %

 - Học sinh trả lời chưa chính xác câu hỏi : 9 em đạt 33,3 %

Từ điều tra thực tế tôi nhận thấy thuận lợi thì ít, khó khăn thì nhiều.

 *Về thuận lợi:

 - Ban giám hiệu trường rất quan tâm tới lực lượng và chất lượng giáo dục.

 

doc14 trang | Chia sẻ: thiennga98 | Lượt xem: 634 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng hệ thống câu hỏi “Tích hợp” trong giảng văn THCS - Bùi Thanh Hải, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lòng đất, làn nước. Cùng chung mục đích, lí tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc. Điệp từ –súng, đầu Mang tính chất hàm xúc hiện tượng. Sự gắn bó, gần gũi, chia sẻ khó khăn trong chiến đấu Họ cùng mục đích, cùng lí tưởng -Đồng cảnh, đồng cảm, cùng chung mục đích lí tưởng đấu tranh vì độc lập hoà bình dân tộc -Với cấu trúc xong hành đối xứng mượn tục ngữ, thành ngữ, lời thơ mộc mạc, giản dị Họ cùng hoàn cảnh xuất thân đồng cảnh, đồng cảm, họ hiểu nhau, họ có cùng mục đích, một lí tưởng sống, lí tưởng đấu tranh cho hoà bình, độc lập tự do. Đây chính là cơ sở tạo nên tính tri âm, tri kỷ tình đồng chí đồng đội sau này. -Một câu đặc biệtkết quả của những ý trên. -Đúng đây là một câu đặc biệt chỉ có hai tiếng như khép lại tình cảm của tình đồng chí, đồng đội. Nó như dồn nén chất chứa, bật ra thật thân thiết thiêng liêng như tiếng gọi đồng đội là cao trào của mọi cảm xúc mở ra những gì chứa đựng ở câu sau -Tích hợp Tiếng việt -Tích hợp Tập làm văn -Tích hợp Tiếng việt. -Tích hợp Tập làm văn -Tích hợp Tiếng việt -Tích hợp TLV -Tích hợp TV -Tích hợp TLV -Tích hợp TLV -Tích hợp chờ *Ví dụ2: Ví dụ cụ thể khi tìm hiểu văn bản “Mùa xuân nho nhỏ” trong phần tìm hiểu văn bản 1/Hình ảnh mùa xuân thiên nhiên ; STT Câu hỏi Hướng trả lời Hướng tích hợp 1 2 3 4 5 6 7 Tác giả đã phác hoạ hình ảnh thiên nhiên Mùa xuân như thế nào ? -Cấu tạo ngữ pháp trong 2 câu đầu có gì đặc biệt ?Có tác dụng gì khi xây dựng cấu tạo đặc biệt đó ? Ngoài ra ở những câu tiếp theo, tác giả sử dụng kiểu câu gì? Thể hiện cảm xúc gì? (GV bình chuyển) Thử phỏng đoán trong hai câu thơ tiếp theo “giọt long lanh” là giọt gì? Hãy xác định biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong hai câu thơ? Nói rõ điều gì? Em có liên hệ với bức tranh mùa xuân thiên nhiên nào trong quá trình tìm hiểu các văn bản đã học? GV bình chú thêm. -Tả cảnh thiên nhiên mùa xuân với những hình ảnh quen thuộc, dòng sông xanh ,bông hoa tím biếc ,tiếng chim chiền chiện -Đảo vị ngữ trong hai câu đầu ; “Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc” Động từ “mọc”làm vị ngữ đặt trước bộ phận chủ ngữ ,ở đầu khổ thơ ,đầu đoạn thơ là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Nó không chỉ tạo cho người đọc ấn tượng đột ngột bất ngờ, mới lạ, mà còn làm cho hình ảnh sự vật trở nên sống đông như đang diễn trước mắt. Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xoè nở trên mặt nước xanh sông xuân. -Kiểu câu cảm “ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời” Tiếng chim chiền chiện hót ríu ra trong bầu trời xuân, càng làm cho không khí trở nên vui tươi, rộn ràng, ấm áp và náo nức. Thể hiện cảm xúc say sưa trước cảnh vật mùa xuân thiên nhiên của tác giả -Không rõ là giọt gì. Giọt sương sớm, giọt mưa xuân, giọt long lanh hay là giọt nước trong suốt phản ánh bình minh -Nếu liên hệ với hai câu trên thì có thể là giọt sương long lanh của tiếng chim chiền chiện đang hót vang trờiHay rộng hơn là giọt cảm xúc của nhà thơ trước thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng - Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác tiếng chim thông thường được cảm nhận bằng thính giác , giọt sương có thể cảm nhận bằng thính giác, giọt cảm xúc bằng cảm giác nhưng lại được cảm nhận bằng xúc giác nhưng lại được cảm nhạn bằng xúc giác “đưa tay hướng về” Cảm hứng say sưa đến bất tận của con người trước mùa xuân, sử dụng mọi giác quan để thâu tóm, để đón nhận mùa xuân. -Mùa xuân trong “Truyện Kiều”-đoạn trích “Cảnh ngày xuân”: “Cỏ non xanh rợn chân trời Cành Lê trắng điểm một vài bông hoa” Cảnh đẹp kiêu sa, trong sáng với những hình ảnh ước lệ tuyệt đẹp. Khác với mùa xuân nho nhỏ với những hình ảnh mùa xuân thiên nhiên thật gần gũi, bình dị mà đáng trân trong biết bao. -Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân dễ dàng liên hệ với những cảm xúc của nhà thơ Xuân Diệu trước mùa xuân: “Hỡi xuân hồng ta muốn căn vào ngươi” Thể hiện sự khát khao tưởng như muốn ngấu nghiến, muốn “nuốt chửng” lấy mùa xuân của đất trời Còn với Thanh Hải, một động tác nhẹ nhàng nhưng cũng rất trân trọng mùa xuân. “Đưa tay hứng về” cũng là tình yêu với mùa xuân nhưng đó là một tình yêu dịu nhẹ mà sâu sắc biết nhường nào -Tích hợp ngang (phần Tiếng việt) Tích hợp ngang (phần Tiếng Việt) Tích hợp ngang (phần Tiếng Việt) Tích hợp dọc Thông qua hệ thống câu hỏi tích hợp, giáo viên đã cùng học sinh cảm nhận được bức tranh mùa xuân thiên nhiên của bài thơ, đảm bảo đặc trưng của một văn bản nghệ thuật qua những biểu hiện nghệ thuật để thể hiện nội dung của văn bản, hơn nữa còn góp phần mở rộng cho học sinh những kiến thức văn học có liên quan khi các em cảm nhận thơ văn. 2.4-Tích hợp trong phần tổng kết. Từ những nội dung học sinh đã được tìm hiểu qua các phần trước, hướng tích hợp chủ yếu ở phần này là để học sinh liên hệ văn bản với cuộc sống, với các môn học khác hoặc liên hệ về tư tưởng, tình camr của bản thân học sinh VD: Tổng kết ý nghĩa văn bản “ánh trăng”của Nguyễn Duy: STT Câu hỏi Hướng trả lời Hướng tích hợp 1 2 3 4 Qua tìm hiểu toàn bộ bài thơ “ánh trăng” nhận xét kết cấu giọng điệu bài thơ? Kết cấu, giọng điệu đó có tác dụng gì? Đọc bài thơ “ánh Trăng” em cảm nhận được điều gì? Tìm trong văn học Việt Nam những bài thơ về Trăng chứa hàm ý khác? -Kết hợp hài hoà giữa tự sự với trữ tình. -Giọng điệu tâm tình của thể thơ năm chữ. -Nhịp thơ khi thì trôi chảy, tự nhiên, nhịp nhàng, lúc thì ngân nga thiết tha cảm xúc, lúc lại trầm lắng biểu hiện suy tư. -Kết cấu, giọng điệu có tác dụng làm nổi bật chủ đè, lời giản dị nhưng gợi nhiều cảm nghĩ, tạo tính chân thực, chân thành, gây ấn tượng mạnh cho người đọc. -Từ một câu chuyện riêng, bài thơ cất lên lời tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian lao, tình nghĩa với đất nước -ánh Trăng nằm trong mạch cảm xúc “Uống nước nhớ nguồn” gợi lên đạo lí sống thuỷ chung đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. VD: -Thơ Trăng của chủ tịch Hồ Chí Minh: Ngắm trăng, Rằm tháng giêng, Tin thắng trận -Thơ Trăng của Hàn Mặc Tử. - Thơ Trăng của Hồ Xuân Hương Tích hợp ngang (Tập làm văn) Tích hợp ngang Liên hệ thực tế cuộc ssống Tích hợp ngang-dọc 2.5- Hướng dẫn về nhà. ở phần hướng dẫn về nhà, với hệ thống câu hỏi tích hợp giúp học sinh chuẩn bị bài tốt hơn, có điều kiện ôn lại những kiến thức đã học dễ dàng, đồng thời mở rộng hơn những kiến thức có liên quan. VD: Sau khi học xong văn bản “Chó Sói và Cừu non” trong thơ ngụ ngôn của La-Phông-Ten, giáo viên hướng dẫn chuẩn bị bài sau: 1/Từ văn bản “Chó Sói và Cừu non”, hãy thử “soi” vào “Tiếng nói văn nghê” của Nguyễn Đình Thi xem có điểm nào trùng hợp? Hãy nêu rõ điểm đó? 2/ Sưu tầm thêm thơ ngụ ngôn của La-Phông-Ten. 3/ Tự rút kinh nghiệm khi làm bài nghị luận về một tác giả-tác phẩm qua bài viết của Buy-Phông “Chó Sói và Cừu non” ghi rõ những điều em học được sau khi đọc văn bản này. * Chuẩn bị bài sau: “Con Cò”: 1/ Tìm hiểu về tác giả Chế Lan Viên (Tìm trong sách văn học lớp 12, cuốn Thi nhân Việt Nam hoặc các báo, tạp chí). Sưu tầm ít nhất một bài thơ của Chế Lan Viên. 2/ Tìm những bài thơ, ca dao có hình ảnh Con Cò. Suy nghĩ xem “Con Cò” đó ẩn dụ cho ai? 3/ Trả lời các câu hỏi theo đề bài: Tìm hiểu chú thích. Xác định giọng đọc, thể thơ của bài thơ. ở tiết 1, tìm hiểu hình ảnh Con Cò trong lời ru tuổi ấu thơ, tìm hiểu kĩ ý nghĩa 4 câu thơ đầu, nhận xét cách vận dụng sáng tạo ca dao vào bài thơ của tác giả. Tìm hiểu Con Cò trong đoạn đầu bài thơ mang ý nghĩa biểu tượng gì? 3.Rút kinh nghiệm sau quá trình thực hiện. Sau khi áp dụng hệ thống câu hỏi tích hợp, tôi tự rút kinh nghiệm về hệ thống câu hỏi đã phù hợp với đối tượng học sinh trực tiếp giảng dạy. Học sinh trả lời tương đối tốt hệ thống câu hỏi Giáo viên đưa ra theo mức độ cần thiết . ở một số bài sau, sau khi nhận thấy kết quả áp dụng hệ thống câu hỏi chưa phù hợp, tôi đã ghi chép lại phần rít kinh nghiệm ở bài soạn hoặc sổ ghi chép, tích luỹ tư liệu nhằm hoàn hiện trong những tiết học sau. Nhờ đó, hiệu quả bài giảng sâu đậm hơn, học sinh áp dụng tốt kiến thức, liên hệ tốt với cả tích hợp ngang và tích hợp dọc. Cùng với việc tự rút kinh nghiệm cho bản thân, tôi còn mời các đồng nghiệp trong tổ dự giờ, góp ý về cách áp dụng hệ thống câu hỏi tích hợp trong giờ giảng văn thông qua các đợt thao giảng: *Đợt 1: Đầu năm (tháng 9), tiếp theo là đợt chào mừng ngày 20/11 rút kinh nghiệm ở học kỳ I. *Đợt 2: Thao giảng mùa xuân vào tháng 2, rút kinh nghiệm, hoàn thiện hơn trong tiết dự giờ vào đợt thi đua kỷ niệm ngày 8/3 và ngày 26/3. Rút kinh nghiệm trong cả năm học. IV.Kết quả. Sau khi thực hiện áp dụng hệ thống câu hỏi tích hợp trong giờ giảng văn trong cả năm học, kết quả cụ thể như sau: -Trả lời tốt câu hỏi: 16 em (học sinh khá -giỏi)-chiếm 59,3%. -Trả lời chưa đầy đủ: 8 em (học sinh Trung bình-khá)-chiếm 29,6%. -Chưa trả lời đúng câu hỏi : 3 em (học sinh trung bình)-chiếm 11,1%. Đó là kết quả chưa thực sự cao nhưng bản thân tôí tự nhận thấy với việc áp dụng hệ thống câu hỏi này có tác dụng lớn trong học tập môn Ngữ văn, giúp học sinh củng cố, ôn luyện, mở rộng, liên hệ kiến thức tốt. Thông qua việc trả lời câu hỏi tích hợp, học sinh có điều kiện rèn kuyện tư duy, rèn luyện bản thân tốt hơn. V. BàI học kinh nghiệm. Đưa hệ thống câu hỏi tích hợp vào bài giảng văn là cần thiết. Điều này đã được chứng minh rất rõ ràng qua cả lý thuyết và thực tiễn. Là người trực tiếp giảng dạy, bản thân tôi đã tự rút ra được một số kinh nghiệm: - Người thầy giáo không ngừng tích luỹ, trau dồi kiến thức không chỉ của một bộ môn giảng văn, mà cả ở lĩnh vực kiến thức đời sống khác. Trên đây là một kinh nghiệm thực tế mà tôi đã áp dụng đối với lớp tôi đang giảng dạy. Tôi thấy việc giảng dạy theo hệ thống câu hỏi tích hợp tạo được niềm tin cho các em học tập và nâng cao hiệu quả giờ dạy phát huy được tính tích cực – sáng tạo của học sinh đồng thời rèn được nhiều kỹ năng khác. Tôi mong được sự góp ý của các đồng chí! Tôi xin chân thành cám ơn! Tuân Đạo, ngày 10 tháng 05 năm 2009 Người viết Bùi Thanh Hải ---------Hết-----------------

File đính kèm:

  • docVan Hoc9 Nam 2008-2009.doc