Sáng kiến kinh nghiệm: Phát huy tính tích cực của học sinh trong luyện tập chạy bền

" Tính tích cực là một hiện tượng Sư phạm, biểu hiện ở sự gắng sức cao về nhiều mặt trong hoạt động học tập" (L.V. Relrova, 1975). Học tập là một trường hợp riêng của sự nhân thức, "Một sự nhận thức đã được làm cho dễ dàng đi và được thực hiện dưới sự chỉ đạo của giáo viên" ( P.V. Erđơniev, 1974). Vì vậy nói tới tích cực học tập, thực chất là nói tới tính tích cực nhận thức.

- Tính tích cực của học sinh là hoạt động nhận thức của học sinh đặc trưng trong việc học tập, nghị lực trong quá trình luyện tập, tính tích cực của học sinh là quá trình phát hiện tìm hiểu, giải quyết nhiệm vụ nhận thức dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, sự chủ động trong học tập và thể hiện qua việc tham gia các hoạt động TDTT.

- Để có thể dạy học theo phương pháp tích cực hoá người học đối với môn học thể dục đương nhiên rất cần có sân tập và phương tiện tập luyện tốt hơn hiện nay và đó là chính là phương tiên dạy học của người giáo viên thể dục, tuy nhiên đây là một vấn đề cần khắc phục.

- Sức bền là một trong những tố chất quan trọng của con người nhất là trong giai đoạn phát triển toàn diện của các em.

 

doc10 trang | Chia sẻ: thiennga98 | Lượt xem: 121 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm: Phát huy tính tích cực của học sinh trong luyện tập chạy bền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững môn luyện tập theo ý thích chủ quan của mình mà không để ý đến thể trạng cơ thể cũng như tố chất TT của mình. Một số em có thể trạng và thể lực yếu lại thích các môn vận động mạnh như: bóng đá, chạy bền, có em thấy bạn chọn thì mình cũng chọn hay do các ban rủ tập cùng. - Cũng có thể do giáo viên hướng dẫn học sinh cách chọn lựa môn TT phù hợp cho các em cũng như việc áp dụng phương pháp, dung cụ luyện tập còn hạn chế dẫn đến các em không có hứng thú luyện tập. - Ngoài ra các em chưa chú trọng đến quá trình khởi động và lượng vận động của mình. - Có thể nói chất lượng thể lực của học sinh trong trường là một vấn đề cần giải quyết không chỉ có tôi mà những giáo viên đi trước đều có thể cảm nhận được. 3.Nội dung a. Yêu cầu phương pháp: - Qua một số vấn đề ta có thể thấy thực chất việc giảng dạy thường xuyên bị thói quen nói dài, giảng giải và làm mẫu quá sâu, quá kĩ trong khi thực chất không cần đến thế. Bây giờ ta phải làm sao để đưa ra các phương pháp và hình thức có thể khác nhau, sao cho giờ học đạt hiểu quả cao nhưng phong phú nội dung hình thức tập luyện, đặc biệt để giờ học không quá căng thẳng mà vui tươi, nhẹ nhàng, đạt hiểu quả cao về giáo dục, về rèn luyện sức khoẻ, thể lực học sinh. - Phần lý thuyết : áp dụng phương pháp đọc tài liệu để nghiên cứu và đổi mới phương pháp dạy học tích cực của học sinh. - Nghiên cứu kỹ những tài liệu và SGK. - Sử dụng phương pháp phỏng vấn, thống kê, phiếu học tập. - Quan sát tìm hiểu thực tế của học sinh. - Một số phương pháp luyện tập, sử dụng các dụng cụ luyện tập. - Tìm hiểu thực trạng thể lực của học sinh thông qua kiểm tra đánh giá đầu năm. b . Biện pháp thực hiện: - Như vậy để học sinh có tích cực tập luyện nâng cao thể lực trong các giờ dạy giáo viên cần chú ý những điểm cơ bản sau: . Giảm lí thuyết, giảng giải đến mức hợp lý, để tranh thủ thời gian cho học sinh luyện tập. . Đổi mới cách tổ chức giờ học sao cho phù hợp với nội dung, điều kiện cụ thể, giảm tối đa sự chờ đợi tập luyện, tạo điều kiện cho học sinh tự quản. . Tăng cường áp dụng các phương pháp trò chơi, thi đấu. . Tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá, tham gia đánh giá. . Không để giờ học căng thẳng, nặng nề, nên vui tươi, hấp dẫn, nhẹ nhàng nhưng hiệu quả cao. Phiếu điều tra 1. Em hiểu thế nào là sức bền? a) Khả năng của cơ thể chống lại mêt mỏi khi luyện tập. b) Khả năng lao động hay tập luyện TDTT kéo dài. c) Cả a và b. 2. Sức bền được chia làm mấy loại: a) Sức bền chung – Sức bền chuyên môn. b) Sức bền thể lực – Sức bền riêng biệt. c) Cả a và b. 3. Sức bền chung là gì? a) Là khả năng của cơ thể khi thực hiện công việc nói chung trong một thời gian dài. b) Là khả năng của cơ thể khi làm việc trong một thời gian ngắn. c) Cả a và b. 4. Sức bền chuyên môn là gì? a) Là khả năng của cơ thể khi thực hiện chuyên sâu một hoạt động lao động. b) Là khả năng thực hiện bài tập TT trong một thời gian dài. c) cả a và b. - Ngoài ra tôi còn sử dụng một phiếu học tập để đánh giá ý thức luyện tập của học sinh và sự hiểu biết về phương pháp luyện tập của học sinh : 1. Em đã tự tập chạy bền bao giờ chưa? 2. Em có định tập sức bền không ? tập theo hình thức nào kế hoạch tập của em ra sao?. 3. Một học sinh nam chưa tập chạy bao giờ ngay buổi đầu tiên đã chạy 1000m theo em có tốt không? 4. Một bạn chạy bền xong đứng lại ngay đúng hay sai? 5. Sau khi tập bài thể dục xong một bạn tập chạy nhẹ nhàng trong 4 - 5 phút theo vòng số 8 ở nhà như thế có tốt hay không? - Kết quả cho thấy: vốn hiểu biết của các em về sức bền nhìn chung còn nhiều hạn chế, không quan tâm đến luyện tập thể lực, mặc dù biết rằng sức bền kém sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến học tập cũng như sự phát triển thể lực. * Từ đó tôi nêu ra một vài kinh nghiệm về “Phát huy tính tích cựu của học sinh trong luyện tập chạy bền” - Trước tiên tôi dạy học sinh cách đo mạch đập trước và sau khi luyện tập để biết lượng vận động . . Bài tập phù hợp với mỗi học sinh về thể lực,giới tính mà tập luyện cho vừa sức. Với học sinh có sức khoẻ bình thường cần chạy nhẹ nhành liên tục 6 phút hoặc chạy hết 500m trở lên mới có tác dụng rèn luyện sức bền. . Tập chạy nhẹ đến nặng: những buổi tập đầu tiên cần chạy nhẹ nhàng với tốc độ chậm khoảng 2 – 3 phút hoặc 300 – 350m, sau đó tăng dần thời gian , khoảng cách tốc độ lên một chút. Sau một số buổi tập khi cơ thể đã quen có thể nâng dần từng chỉ tiêu. Cần theo dõi sức khoẻ của học sinh trong quá trình tập bằng cách đặt ra những câu hỏi sau khi học sinh luyện tập như: có cảm thấy dễ chịu không , ăn ngon miệng không, ngủ có tốt không,trạng thái cơ thể thế nào ....nếu thấy những biểu hiện nêu trên đều tốt có thể nâng dần cự li hoặc thời gian chạy, ngược lại nếu thấy không tốt cần giảm mức độ tập hoặc cho đi kiểm tra sức khoẻ để tìm hiểu nguyên nhân và hướng khắc phục. . Tập thường xuyên hằng ngày hoặc 3 –4 lần/ tuần một cách kiên trì, không nóng vội. . Trong một giờ học, sức bền phải đề học sau các nội dung khác và bố trí ở cuối phần cơ bản. . Tập chạy xong không dừng lại đột ngột, mà thực hiện một số động tác hồi tĩnh trong vài phút. . Song song với tập chạy, cần rèn luyện kĩ thuật bước chạy, cách thở trong khi chạy, cách chạy vượt qua một số chướng ngại vật trên đường chạy và các động tác hỗi tĩnh sau khi chạy.... . Ngoài ra để học sinh thực sự tích cực luyện tập thể lực trong các giờ học tôi thường xuyên thay đổi cách luyện tập ở từng giờ học để học sinh không cảm thấy nhàm chán khi luyện tập bằng cách sử dụng các phương pháp luyện tập: . Tập sức bền bằng trò chơi vận động hoặc tập một số bài tập như: Nhảy dây, tâng cầu tối đa, tập chạy phối hợp với thở “ hai lần hít vào, ba lần thở ra’’ hoặc “ chạy vượt chướng ngại vật gặp trên đường chạy tự nhiên....Kết hợp chạy với đi bộ và rút ngắn dần cự li hoặc thời gian đi bộ để tăng cự li hoặc thời gian tập. . Tập sức bền bằng đi bộ hoặc chạy trên địa hình tự nhiên hoặc tập theo thời gian từ 3 phút đến 8, 9 ,10, 12 , 20 .... phút. . Tập sức bền bằng các môn có tác dụng rèn luyện sức bền như: đi bộ thể thao, chạy cự li trung bình, chạy cự li dài. Cũng có thể tập các môn cầu lông, bóng rổ, bóng đá, bơi cự li trung bình hay dài.... . Có thể tập cá nhân hoặc theo nhóm tại chỗ hoặc di chuyển theo vòng số 8 khi đi bộ, chạy.... thời gian tập thích hợp vào buổi sáng sớm ( hoặc sau khi tập bài thể dục sáng ) hoặc vào chiều tối trước khi ăn cơm. Cũng có thể tập dưới hình thức đi dạo trên quãng đường dài sau bữa ăn tối khoảng 1 giờ hoặc trước khi đi ngủ. - Ngoài những phương pháp luyện tập trên tôi còn áp dụng thêm các dụng cụ luyện tập được trang bị và các dụng cụ tự làm vào kết hợp cho học sinh luyện tâp như: sử dụng các thanh chắn làm chướng ngại vật, dây cao su, .... để nâng cao và tăng sức chịu đựng cho học sinh. - Với những hình thức tập luyện phong phú, phương pháp tập đơn giản, nếu có ý thức giữ gìn và nâng cao sức khoẻ bất kì học sinh nào cũng có thể tập được. Điểm khó ở đây là cần hướng cho học sinh luyện tập một cách kiên trì theo sức khoẻ cả ở trên lớp cũng như ở nhà. 4. Kiểm tra đánh giá: Sau nhiều năm thực hiện tôi đã thu được một số kết quả : -Chất lượng thể lực của học sinh được nâng lên . -Kết quả học tập môn thể dục có nhiều chuyển biến - Hàng năm nhiều HS được tuyển chọn vào đội tuyển chạyViệt giã của huyện Cẩm Khê và dành được những thành tích cao: +Hạng ba toàn đoàn năm 1998,2003,2004 +Nhất toàn đoàn dành cúp Hùng Vương năm 2005 Kết luận: -Mặc dù chất lượng đạt được chưa cao song thông qua các giờ dạy tôi có thể thấy học sinh đã có ý thức tích cực luyện tập không còn các biểu hiện chạy cắt vòng, chạy bỏ vòng, chạy không hết cự li yêu cầu, khi chơi trò chơi phát triển sức bền thì các em tham gia rất nhiệt tình. Việc được luyện tập bằng các phương pháp khác nhau giữa các tiết học đã rèn cho học sinh ý chí quyết tâm và nghị lực của bản thân -Nhiều em đã có ý thức tự rèn luyện sức khỏe bằng phương pháp luyện tập sức bền: đi bộ , chạyvào buổi sáng 5. Đề xuất biện pháp : - Qua việc nghiên cứu tôi đề xuất các biện pháp cụ thể như sau: . Trong các tiết học cần thường xuyên thay đổi các phương pháp luyện tập chạy bền cho phong phú, không làm học sinh nhàm chán trong việc luyện tập. . Tạo cho học sinh hiểu được tầm quan trọng của việc luyện tập chạy bền. . Để học sinh có thể đánh giá việc rèn luyện của mình đạt kết quả đến đâu GV cần phải thường tổ chức các cuộc thi chạy bền nhiều cự li từ quy mô lớp đến cấp trường để tạo ra hứng thú cho học sinh. . Để đạt thành tích cao trong các cuộc thi trong thể thao nên tổ chức thành các đội năng khiếu cho các môn khác nhau để từ đó có thể tuyển chọn và luyện tập tốt hơn cho các em. . Đưa ra các bài tập rèn luyện sức bên phù hợp cho từng đối tượng học sinh để học sinh có thể luyện tập ở trường và ở nhà. 6.Kết luận và kiến nghị a. Kết luận chung: - Việc áp dụng các phương pháp rèn luyện thể lực trong quá trình luyện tập thể lực đã góp phần nâng cao chất lượng cũng như nâng cao thể lực, ý thức rèn luyện, luyện tập của học sinh trong các giờ học. - Học sinh được vận động sáng tạo, vui chơi, tìm tòi nhưng vẫn được rèn luyện thể lực thường xuyên. - Việc giảng dạy bộ môn thể dục muốn đạt hiệu quả cao trong việc rèn luyện thể lực giáo viên cần tạo cho học sinh hứng thú trong việc luyện tập và rèn luyện thể lực. - Giáo viên cần nghiên cứu các phương pháp luyện tập mới cũng như sáng tạo những dụng cụ luyện tập hỗ trợ cho học sinh luyện tập. - Cần phải tổ chức phù hợp một tiết dạy sao cho việc luyện tập và rèn luyện một cách hợp lý không quá nặng về một phần nào đó. - Tạo cho học sinh ý thức tự quản, ý chí vươn lên, tham gia đánh giá một cách công bằng, hợp lý như vậy mới có thể phát huy hết khả năng tố chất của học sinh. b. Một số kiến nghị - Trang bị đầy đủ các thiết bị dụng cụ hỗ trợ luyện tập. - Mở các lớp chuyên đề bộ môn để giáo viên đi dự nâng cao chuyên môn. - Mở các lớp bồi dưỡng học chuyên môn để có thể trao đổi các phương pháp tập luyện giữa các giáo viên. Cẩm Khê, ngày 25tháng 5 năm 2008 Người viết Lã Văn Đông

File đính kèm:

  • docSang kien kinh nghiem THPT.doc
Giáo án liên quan