Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 4, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phßng gi¸o dôc vµ ®µo t¹o tp thanh ho¸
Trêng TiÓu häc NguyÔn B¸ NGäc
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
N©ng cao chÊt lîng ®äc
cho häc sinh líp 4
Hä vµ tªn: Lª ThÞ Hång
§¬n vÞ c«ng t¸c: Trêng tiÓu häc NguyÔn B¸ Ngäc
SKKN m«n: TiÕng ViÖt
N¨m häc: 2010- 2011
0 PHẦN MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm học 2010 – 2011, năm học tiếp tục thực hiện chương trình đổi mới
giáo dục, năm học tiếp tục hưởng ứng cuộc vận động “ Nói không với tiêu cực
trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”. Đổi mới chương trình giáo
dục, điều mà giáo viên quan tâm nhất là thay đổi sách giáo khoa, thay đổi nội
dung dạy học sẽ dẫn đến thay đổi cách thức dạy của thầy và cách thức học của
trò. Để chủ động, sáng tạo trong dạy học, nâng cao nghiệp vụ sư phạm cho
bản thân, đòi hỏi người giáo viên phải cập nhật với chương trình mới, tìm ra
những biện pháp dạy học thích hợp.
Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng trong nhà trường
tiểu học. Môn Tiếng việt nhằm hình thành và phát triển ở học sinh kỹ năng sử
dụng tiếng mẹ đẻ (nghe, nói, đọc, viết) và cung cấp những hiểu biết về Tiếng
việt, nhằm từng bước giúp các em làm chủ dần công cụ ngôn ngữ để học tập
trong nhà trường; để rèn luyện khả năng giao tiếp một cách đúng đắn, tự
nhiên, tự tin trong các môi trường xã hội.
Tiếng việt là môn học công cụ mà trong đó Tập đọc đóng vai trò khởi
đầu. Đọc giúp học sinh có khả năng hiểu biết, tiếp thu được nền văn minh của
nhân loại. Nhờ biết đọc các em mới có điều kiện để học và tiếp thu các môn
học khác. Thông qua môn tập đọc, không những giúp học sinh phát triển tư
duy mà còn bồi dưỡng cho các em những tình cảm tốt đẹp, góp phần phát
triển nhân cách toàn diện. Đọc tốt, sẽ dẫn đến nói tốt, viết tốt, thực hành tốt
mọi hoạt động học của mình.
Vậy làm thế nào để học sinh đọc tốt, đọc hay, đọc diễn cảm? và để giúp
học sinh đọc tốt, giáo viên cần phải làm gì? Có biện pháp gì? Đó là câu hỏi
mà bấy lâu nay tôi trăn trở. Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 4, tôi tìm
tòi, đúc rút, thấy mình có một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh.
Vì vậy tôi mạnh dạn viết bài viết này. Mong được sự khích lệ, động viên của
các bạn đồng nghiệp, sự đóng góp ý kiến của các lớp anh chị đi trước, để bài
1 viết thực sự có ích cho các giáo viên đang ngày đêm phục vụ cho "Sự nghiệp
trồng người".
II. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH.
Trong năm học 2010 – 2011, tôi được phân công và phụ trách lớp 4A.
Lớp gồm có 28 học sinh( nữ 14 em , nam 14 em), các em phần lớn là
con gia đình nông nghiệp, lao động tự do nên bố mẹ ít có điều kiện quan tâm
đến các em. Chính vì vậy chất lượng học sinh trong lớp không đồng đều. Qua
đợt kiểm tra đọc đầu năm, tôi rất lo lắng vì hầu như các em mới chỉ dừng lại ở
mức độ đọc đúng, một số học sinh còn đọc chưa thông, chưa lưu loát, còn
ngắc ngứ (em Đạt, em Thu, em Tuấn) Học sinh trong lớp chưa biết đọc hay,
đọc diễn cảm một văn bản”
Sau đây là kết quả tôi khảo sát đầu năm môn tập đọc cụ thể như sau:
Giỏi: 6 em 21,4 %
Khá: 8 em 28,6 %
Trung Bình: 11 em 39 %
Yếu: 3 em 11 %
Trước tình hình đó, là giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi tự đặt ra cho
mình phải tìm ra giải pháp để “ Nâng cao chất lượng đọc cho học sinh”.
2 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
TÌM HIỂU MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN TỚI MÔN TẬP ĐỌC LỚP
4
I. MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG TRÌNH TẬP ĐỌC LỚP 4
1. Củng cố, phát triển kỹ năng đọc cho học sinh.
Thông qua 62 bài tập đọc thuộc các loại hình văn bản nghệ thuật, báo
chí, khoa học, trong đó có 45 bài văn xuôi, 1 vở kịch, 17 bài thơ, phân môn
tập đọc lớp 4 tiếp tục củng cố nâng cao kỹ năng đọc trơn, đọc thầm đã được
phát triển từ các lớp dưới, đồng thời rèn luyện thêm về kỹ năng đọc diễn cảm
(thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp với sự việc, hình ảnh, cảm
xúc, tính cách nhân vật trong bài).
Phân môn tập đọc lớp 4 còn giúp học sinh nâng cao kỹ năng đọc hiểu
văn bản như: Nhận biết về đề tài, cấu trúc của bài, biết cách tóm tắt bài, - phát
hiện giá trị của một số biện pháp nghệ thuật trong các văn bản
2. Mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho học
sinh.
Nội dung các bài tập đọc trong SGK Tiếng việt lớp 4 phản ánh một số
vấn đề cơ bản về đạo đức, phẩm chất, sở thích của con người thông qua các
hệ thống chủ điểm của bài góp phần cung cấp cho học sinh những hiểu biết về
thiên nhiên, xã hội, con người trong nước và thế giới, ngoài ra học sinh còn
được cung cấp thêm về vốn từ ngữ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm
văn học
II. PHÂN BỐ CHƯƠNG TRÌNH PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 4
Chương trình tập đọc lớp 4 gồm 62 bài tập đọc thuộc 10 chủ điểm. Mỗi
chủ điểm được dạy trong 3 tuần, mỗi tuần có 2 tiết. Ngoài ra còn có các tiết
ôn tập, triển khai cụ thể như sau:
Tập một gồm 5 chủ điểm, học trong 18 tuần
3 - Tuần 1,2,3: Thương người như thể thương thân (lòng nhân ái)
- Tuần 4, 5, 6: Măng mọc thẳng (Tính trung thực, lòng tự trọng)
- Tuần 7, 8, 9: Trên đôi cánh ước mơ (ước mơ)
- Tuần 11, 12, 13: Có chí thì nên (Nghị lực)
- Tuần 14, 15, 16, 17: Tiếng sáo diều (Vui chơi)
Tập hai gồm 5 chủ điểm, học trong 17 tuần.
- Tuần 19, 20, 21: Người ta là hoa đất (Năng lực, tài trí)
- Tuần 22, 23, 24: Vẻ đẹp muôn màu (óc thẩm mỹ)
- Tuần 25, 26, 27: Những người quả cảm ( lòng dũng cảm)
- Tuần 29, 30, 31: Khám phá thế giới (du lịch, thám hiểm)
- Tuần 32, 33, 34: Tình yêu cuộc sống (lạc quan, yêu đời)
III. QUY TRÌNH DẠY TẬP ĐỌC LỚP 4
A. Kiểm tra bài cũ.
- Giáo viên kiểm tra 2, 3 học sinh đọc thành tiếng bài tập đọc kế trước
(có thể là đoạn, bài)
- Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh trả lời về nội dung đoạn đọc hoặc
nội dung của bài.
B. Dạy bài mới.
1. Giới thiệu bài: Giới thiệu bằng đồ dùng trực quan hoặc lời gợi mở nhẹ
nhàng, ngắn gọn.
2. Hướng dẫn luyện đọc và tìm hiểu bài
a. Luyện đọc
- Học sinh khá hoặc giỏi đọc toàn bài, cả lớp đọc thầm
- Học sinh đọc nối tiếp nhau từng đoạn của bài (lần 1): giáo viên chú ý
sửa lỗi phát âm sai của học sinh.
- Học sinh nối tiếp từng đoạn (lần 2) kết hợp đọc chú giải hoặc từ khó,
câu khó.
- Học sinh luyện đọc theo cặp
- Học sinh đọc cả bài
4 - Giáo viên đọc diễn cảm toàn bài: (lưu ý giọng đọc phù hợp từng văn
bản).
b. Tìm hiểu bài:
- Giáo viên có thể chia lớp thành các nhóm, học sinh thảo luận các câu
hỏi trong bài, rút ra từng ý chính, nội dung chính của bài.
- Trong quá trình tìm hiểu bài, có thể cho học sinh đọc thầm hoặc đọc
thành tiếng từng đoạn, kết hợp hỏi câu hỏi của đoạn đó, giải nghĩa những từ
ngữ khó hiểu rồi rút ra ý chính.
3. Luyện đọc diễn cảm
- Phần này giáo viên hướng dẫn học sinh đọc từng đoạn nối tiếp nhau.
- Luyện đọc theo từng đoạn
- Luyện đọc học thuộc lòng (nếu có yêu cầu)
- Thi đọc diễn cảm
4. Củng cố, dặn dò
- Học sinh chốt lại ý chính hoặc đại ý của bài.
- Chuẩn bị bài sau.
5 CHƯƠNG II
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 4
Để củng cố, nâng cao kỹ năng đọc cho học sinh, người giáo viên phải
có nhiều biện pháp hướng dẫn đọc với cả nhiều hình thức khác nhau: Đọc
thành tiếng, đọc thầm, đọc diễn cảm, đọc hiểu. Mỗi hình thức đọc có một yêu
cầu khác nhau đòi hỏi giáo viên phải lưu ý.
I. ĐỌC THÀNH TIẾNG.
- Đọc thành tiếng là một hình thức đọc đòi hỏi giáo viên phải chú ý đến
kỹ năng đọc đúng, nghĩa là phát âm phải chính xác.
Ở hình thức đọc thành tiếng này, đối với học sinh lớp 4 các em thường
hay phát âm sai ở các từ khó, chính vì vậy, giáo viên cần chú ý luyện cho học
sinh phát âm chính xác chữ Quốc ngữ bằng cách khắc phục lỗi phát âm cụ thể
ở địa phương mình.
1. Khắc phục lỗi phát âm.
Để khắc phục lỗi phát âm cho học sinh, trước hết giáo viên phải khảo
sát nắm được nguyên nhân phát âm sai của học sinh. Các em thường đọc sai
do 2 nguyên nhân sau:
- Sai do phương ngữ
- Sai do thói quen
a. Sai do phương ngũ.
- Đối với học sinh nơi tôi dạy nói riêng, với TP nói chung các em
thường đọc lẫn thanh hỏi thanh ngã, hai thanh này các em đều đọc là thanh
hỏi hoặc đều là thanh ngã.
Ví dụ: Trong bài “ Văn hay chữ tốt”. Học sinh thường đọc sai ở một số
từ như: nỗi oan / nổi oan
lí lẽ / lí lẻ.
Để khắc phục lỗi này: Trước hết giáo viên phải là người phát âm chuẩn,
giáo viên đọc đúng mẫu – Học sinh lắng nghe để tìm ra sự khác nhau về âm
6 thanh, cao độ của tiếng có thanh hỏi và tiếng có thanh
ngã (lẽ/lẻ;sẽ/sẻ;nổi/nỗi). Trên cơ sở đó học sinh phát hiện ra tiếng có thanh
ngã phát ra mạnh hơn, âm thanh vang hơn, ngân hơn.
Lưu ý: Luyện đọc tiếng có thanh ngã đứng riêng: sau đó mới luyện phát
âm 2 tiếng có thanh hỏi và thanh ngã đứng liền nhau.
b. Sai do thói quen
Học sinh lớp 4 ở thời kỳ đầu đọc còn sai nhiều lỗi, đó là do các em đọc
theo cảm tính
Ví dụ: Đọc “ Sản xuất” thành “xản xuất”
Cảm ơn cám ơn
Để khắc phục lỗi phát âm này, giáo viên phải nhắc nhở học sinh tập
trung chú ý vào bài học, không đọc tuỳ tiện những tiếng hay nói, hay dùng do
thói quen. Học sinh nào đọc sai thì phải cho chính học sinh đó đọc sửa lại,
tránh tình trạng giáo viên chỉ ra cái sai nhưng không cho học sinh đọc lại.
Đối với đọc thành tiếng ở lớp 4, yêu cầu các em đọc to, rõ ràng, trôi
chảy, đọc đúng theo từng câu, từng đoạn, từng văn bản. Thực tế cho thấy các
em đọc không sai nhiều lỗi phát âm nhưng về độ rõ ràng trôi chảy thì còn
nhiều điều đáng nói. Nhiều em đọc câu còn rời rạc, từng tiếng ghép lại với
nhau, có em còn chưa biết ngắt, nghỉ đúng chỗ. Vì thế giáo viên phải chú ý
đến vấn đề này.
2. Luyện đọc câu văi dài.
Trong các giờ tập đọc, giáo viên nghe học sinh đọc để nhận xét gợi ý,
hướng dẫn không chỉ về cách phát âm, mà còn về ngắt nghỉ hơi, hay tốc độ
đọc sao cho phù hợp. Thực tế cho thấy đây là một vấn đề khó đối với học sinh
lớp 4, các em chỉ đọc theo dấu chấm, dấu phẩy của câu, mà chưa biết ngắt
nghỉ ở chỗ nào, có học sinh lại ngừng lại ngừng nghỉ tự do khiến cho nhiều
câu văn trở nên vô nghĩa.
Qua thực tế ở những bài văn xuôi, học sinh thường mắc lỗi ngắt giọng
ở những câu dài; có cấu trúc ngữ pháp phức tạp, hoặc mắc lỗi ngay cả ở
7 những câu ngắn vì các em chưa nắm được quan hệ ngữ nghĩa, ngữ pháp giữa
các từ. Lúc này, các em thường ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện mà
không tính đến nghĩa.
Ví dụ: 1: Những đám mây// trắng nhỏ sà xuống cửa kính/ô tô tạo nên
cảm giác/ bồng bềnh huyền ảo//
(Đường đi SaPa)
Ví dụ 2: Đêm nay anh đứng gác ở trại. Trăng ngàn và gió núi bao la
khiến lòng anh man mác/ nghĩ đến trung thu và nghĩ tới các em//.
(Trung thu độc lập)
Ở những trường hợp trên bị xem là ngắt giọng sai tạo nên ý nghĩa của
câu hoàn toàn sai lệch so với ý nghĩa vốn có của nó.
Vậy nếu như khi dạy gặp phải các trường hợp trên, giáo viên nên yêu
cầu học sinh phân tích quan hệ ngữ pháp – ngữ nghĩa của các cụm từ trong
câu.
Ở ví dụ 1: Nói đến đám mây trắng nhỏ bay là là xuống khung cửa kính
ô tô, tạo nên một cảm giác đẹp huyền ảo. Vì thế đối với câu trên phải ngắt
giọng lại mới đúng:
“ Những đám mây trắng nhỏ/ sà xuống cửa kính ô tô/ tạo nên cảm giác
bồng bềnh/ huyền ảo//”.
Từ phân tích trên, chúng ta xác lập được mẫu ngắt giọng đúng cho một
bài tập đọc, đồng thời dự tính được cách đọc không tính đến nghĩa của học
sinh. Từ đó giáo viên chỉ ra những chỗ cần luyện ngắt giọng trong bài. Đối
với những bài tập đọc có câu khó, câu dài thì giáo viên nên ghi các câu đó ra
bảng phụ, cho học sinh đọc và hướng dẫn cách ngắt ngiọng.
Trước khi dạy một bài tập đọc cụ thể. Giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài,
đọc bài nhiều lần, tìm các lỗi phát âm mà học sinh hay mắc, những câu dài
cách ngắt ngiọng phù hợp nhất, dự tính các chỗ học sinh ngắt giọng sai để có
biện pháp giúp học sinh có thói quen trong việc ngắt giọng.
8 Để luyện đọc câu văn dài cho học sinh, ngoài việc ngắt giọng phù hợp,
giáo viên còn cần hướng dẫn học sinh cách đọc khi gặp dấu phẩy. Xét về mặt
cấu trúc ngữ pháp thì dấu phẩy có nhiều chức năng khác nhau: Dấu phẩy ngăn
cách giữa 2 bộ phận câu đẳng lập; dấu phẩy ngăn cách giữa các thành phần
phụ, dấu phẩy ngăn cách giữa các bộ phận song song Thông thường, khi
gặp dấu phẩy, học sinh cũng ngắt giọng, thế nhưng học sinh không phân biệt
được thời gian ngừng khi ngắt giọng ở các dấu phẩy có sự khác nhau. Giáo
viên cần luyện cho học sinh có thói quen ngắt giọng ở các dấu phẩy như sau:
Thời gian ngừng lâu nhất là khi gặp dấu phẩy ngăn cách giữa 2 bộ phận
câu đẳng lập; sau đó đến dấu phẩy ngăn cách giữa các thành phần phụ, dừng ít
nhất ở dấy phẩy ngăn cách giữa các bộ phận song song.
Ví dụ: Xưa kia, (2) người ta cứ nghĩ rằng, trái đất là trung tâm của vũ
trụ (3) đứng yên một chỗ, (1) còn mặt trời, (3) mặt trăng và muôn vàn vì sao
phải quay xung quanh cái tâm này.
(Dù sao trái đất vẫn quay).
Ở ví dụ trên, thời gian ngừng lâu lần lượt theo các dấu phẩy theo cách
đánh số 1, 2, 3.
3. Ngắt nhịp câu thơ
Luyện đọc thơ khác gì với luyện đọc văn xuôi? Hướng dẫn đọc thơ
phải thể hiện được nét đặc trưng của thơ là nhịp, vần, tạo nên nhạc của thơ.
Khi đọc thơ, chỗ ngắt nhịp phải tương ứng với chỗ kết thúc một tiết đoạn.
Giáo viên phải chú ý đến đặc điểm của thơ là hầu như người ta đã lược bỏ các
dấu câu dẫn đến tình trạng học sinh ngắt nhịp sai.
Qua thực tế dạy học cho thấy, khi đọc thơ, học sinh mắc lỗi ngắt nhịp
sai là do không tính đến nghĩa mà chỉ đọc theo áp lực của nhạc thơ. Học sinh
thường tạo ra sự cân đối về mặt âm thanh khi đọc từng câu thơ.
Ví dụ: Với thơ 4 tiếng học sinh thường ngắt nhịp 2/2.
Với thơ 5 tiếng, các em sẽ ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2. Vì vậy học sinh đã
ngắt nhịp sai.
9
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_doc_cho_hoc_sinh_l.doc