Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 3

doc23 trang | Chia sẻ: Duy Thuận | Ngày: 08/04/2025 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 3, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tác giả: Lê Thị Diễm Chức vụ : Giáo viên Đơn vị: Trường TH thị trấn Lam Sơn Thọ Xuân Môn Tiếng Việt SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM "MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ CHO HỌC SINH LỚP 3" A.PHẦN MỞ ĐẦU I.Đặt vấn đề 1. Lý do chọn đề tài. Năm học 2010- 2011 là năm học tiếp tục thực hiện cuộc vận động: "Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong Giáo dục" của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào tạo. Cũng là năm học thứ ba thực hiện cuộc vận động"Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" Thấm nhuần cuộc vận động "Hai không"trong giáo dục, mỗi chúng ta - những người làm công tác giáo dục đều phải lo lắng, trăn trở, tập trung nâng cao chất lượng dạy học nâng cao chất lượng dạy học nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc Tiểu học là bậc học có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Luật phổ cập giáo dục Tiểu học ghi "Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng vì nó là bậc học đầu đầu tiên có nhiệm vụ phải xây dựng toàn bộ nền móng cho hệ thống giáo dục quốc dân để đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.". Nếu đứa trẻ không đạt kết quả tốt ở bậc Tiểu học thì cũng khó tiến bộ được trong những năm tiếp theo (Kết luận của hội nghị Quốc tế năm 1968).Vì vậy hiện nay trên thế giới, các quốc gia đều quan tâm đến giáo dục Tiểu học. Cũng như các môn học khác. Môn Tiếng Việt là môn học góp phần quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo ở Trường Tiểu học theo đặc trưng của môn học.Việc dạy Tiếng Việt trong nhà trường nhằm tạo cho học sinh sử dụng Tiếng Việt văn hoá và hiện đại để suy nghĩ, giao tiếp và học tập. Thông qua việc học Tiếng Việt, nhà trường còn rèn cho các em khả năng tư duy, phương pháp suy nghĩ, giáo dục cho các em tư tưởng, tình cảm, lành mạnh, trong sáng. 1 Trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học, phân môn Chính tả có vị trí quan trọng trong chất lượng học Tiếng Việt của học sinh. Phân môn Chính tả trong nhà trường giúp học sinh hình thành năng lực, thói quen viết đúng chính tả, nói rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng Tiếng Việt văn hoá, Tiếng Việt chuẩn mực. Trong khi viết phải kết hợp với đọc chuẩn để tạo cho học sinh thói quen viết đúng, đọc đúng.Viết đúng chính tả cùng với tập viết, tập đọc, tập nói giúp cho người học chiếm lĩnh được Tiếng Việt văn hoá, là công cụ để tư duy và học tập tốt các môn học khác, cũng như cách viết văn bản nghệ thuật, văn bản hành chính...Trang bị cho học sinh một số công cụ quan trọng để học tập và giao tiếp (ghi chép, viết, đọc và hiểu bài học, bài tập..) Mặt khác, đọc đúng, viết đúng mới phát triển được ngôn ngữ và tư duy khoa học cho học sinh.Viết đúng chính tả còn rèn cho học sinh một số phẩm chất như Tính cẩn thận, có óc thẩm mĩ, bồi dưỡng cho các em tình yêu tiếng Việt, yêu tiếng mẹ đẻ. Cách biểu thị tình cảm đó được thể hiện trong việc viết đúng có nghĩa là không sai lỗi chính tả. Đọc đúng còn gọi là phát âm đúng và viết đúng chính tả. Đây là vấn đề vô cùng quan trọng, nhất là đối với học sinh Tiểu học: Bởi vì giai đoạn Tiểu học là giai đoạn then chốt trong quá trình hình thành kỹ năng chính tả cho học sinh. Trong thực tế hiện nay, kỹ năng nói và thói quen viết đúng chính tả của học sinh Tiểu học chưa được tốt do phát âm của vùng miền khác nhau.Vấn đề học sinh viết sai và phát âm sai lỗi chính tả rất nhiều. Với tầm quan trọng của phân môn chính tả như tôi đã nêu ở trên thì trách nhiệm của người giáo viên trong giảng dạy phải như thế nào để đáp ứng được yêu cầu mục tiêu môn học đề ra. Thấy rõ được trách nhiệm của mình làm sao để giúp các em nắm vững được quy tắc chính tả, thao tác viết nối các con chữ cũng như độ cao, độ rộng của chúng, cách trình bày một văn bản như thế nào cho đẹp, khoa học là cả một vấn đề. Xuất phát từ vấn đề thực tế dạy học, qua nghiên cứu tìm tòi cũng như trong quá trình giảng dạy bản thân tôi nhận thấy: Các em còn viết nguệch ngoạc, cẩu thả theo mẫu chữ hiện hành các em còn sai lỗi nhiều, tuỳ tiện, chữ nối không liền mạch còn viết hoa lung tung, lộn xộn, nhất là độ cao của các con chữ . Chính vì vậy tôi đã trăn trở, suy nghĩ, làm sao trong mỗi giờ chính tả các em không còn lúng túng khi đặt bút để ghi lại những điều cô vừa đọc mà không thắc mắc: "Viết chữ tr hay chữ ch, chữ ng hay chữ ngh ...". Dạy học phân môn Chính tả nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung ở lớp 3 nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cũng như tạo cho em lòng ham mê thích thú khi học Tiếng Việt . Bởi trên thực tế, nếu người nói "Phát âm không chuẩn" không thể làm người nghe hiểu mình muốn gì thì "Viết không đúng"cũng không 2 thể diễn đạt được ý tưởng của mình cho người khác hiểu. Đặc biệt trong chương trình phổ thông, môn Tiếng Việt là môn "Chủ lực và trọng tâm"để có thể khai thác các môn học khác một cách tốt nhất. Là một giáo viên tôi luôn băn khoăn trăn trở làm thề nào để học sinh viết không sai lỗi chính tả. Từ những vấn đề đó tôi đã đi sâu nghiên cứu tìm hiểu đề tài:"Một số biện pháp rèn kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 3". 2. Mục đích nghiên cứu : - Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng viết sai lỗi chính tả của học sinh để từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 3. 3.Giới hạn của đề tài. Trong khuụn khổ điều kiện và năng lực cú hạn tụi mới nghiờn cứu ở lĩnh vực hẹp là rốn kĩ năng viết đỳng chớnh tả đú là"Một số biện phỏp rốn kĩ năng viết đỳng chớnh tả cho học sinh lớp 3" ở Trường tiểu học Thị Trấn Lam Sơn.Chắc rằng cũn cú những điều cần cố gắng mong được sự cảm thụng,gúp ý của cỏc bạn đồng nghiệp,của Hội đồng khoa học. 4.Phương phỏp nghiờn cứu. -Phương phỏp quan sỏt điều tra thực tế. -Phương phỏp thống kờ,đối chứng kết quả thống kờ. -Phương phỏp thực nghiệm. II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1.Thực trạng: 1.1 Cơ sở lý luận: 1.1.1- Cơ sở tâm lí học của việc xác lập nguyên tắc và phương pháp giảng dạy chính tả. Nguyên tắc dạy chính tả có cơ sở tâm lý học.Viết đúng và viết đẹp không chỉ là vận động cơ bắp mà còn là những thao tác trí óc của người viết. Kĩ năng chính tả bao gồm các cử động phối hợp thuần thục của ngón tay, bàn tay, cổ tay, cánh tay để sử dụng bút thực hiện đúng các chữ viết, để đảm bảo khu biệt tốc độ viết chữ nhanh.Yêu cầu trên đây thường được giải quyết ở phân môn tập viết, nhưng cần tiếp tục duy trì, củng cố bền vững để đạt đến mức tự động hoá cao có như vậy mới tránh được những lỗi khi viết chính tả là viết sai, gây lầm lẫn giữa các chữ cái.Việc hình thành kỹ năng chính tả khẳng định vai trò của ý thức."Sự thuần thục của chính tả không phải là sự suy tính cần đặt những chữ cái phù hợp ở vị trí nào". Kỹ năng chính tả phải đạt tới mức độ tự động hoá một cách tự giác. 3 Mức độ thông thạo chính tả thể hiện ở việc viết đúng các chữ cái ở mọi vị trí cần thiết của chúng, phụ thuộc vào hoạt động cơ bắp và thần kinh của các bộ phận cơ thể trực tiếp tham gia vào hoạt động viết. Chính tả Tiếng Việt thuộc loại chính tả ngữ âm, viết chính tả chủ yếu là ghi âm tiết, thể hiện các thành phần âm vị đoạn tính hay siêu đoạn tính trong cấu trúc âm tiết thành chữ âm tiết. Các chữ cái là biểu hiện thính giác âm thanh, được tiếp nhận qua thính giác lời nói, bên cạnh của biểu tượng thính giác âm thanh, viết đúng chính tả còn là sự tái tạo của mẫu chữ, là kỹ năng hoạt động ghi nhớ các biểu tượng thị giác về chữ âm tiết . Biểu tượng thị giác về dạng thức viết có quan hệ với nghĩa , mối liên hệ chữ -nghĩa được phản ánh trong quá trình tiếp nhận, ghi nhớ và thể hiện bằng chữ viết. 1.1.2 Nguyên tắc viết chính tả. Nguyên tắc viết chính tả dựa trên cơ sở tâm lý học và cơ sở ngôn ngữ học. Những đặc điểm về ngữ âm và chữ viết Tiếng Việt làm thành cơ sở ngôn ngữ học của dạy chính tả, có tác giả nêu 3 nguyên tắc chính. +Nguyên tắc dạy chính tả theo khu vực +Nguyên tắc dạy chính tả có ý thức và chính tả không có ý thức. +Nguyên tắc phối hợp giữa các phương pháp tích cực và phương pháp tiêu cực(Xây dựng cái đúng loại bỏ cái sai) 1.1.3 Phương pháp dạy chính tả. Dưới đây là một số phương pháp thường dùng trong dạy chính tả: +Phương pháp luyện tập theo mẫu +Phương pháp đàm thoại +Phương pháp giao tiếp +Phương pháp thảo luận nhóm. Như vậy tâm lý học hiện đại, đề cao vai trò của ý thức, phát huy tính tích cực tự động hoá trong việc hình thành kỹ năng chính tả, các nhà tâm lý nhấn mạnh sự thống nhất giữa tính tự động và ý thức ở một mức độ nhất định ở kỹ năng chính tả"Trong nhà trường mọi công việc có liên quan đến sửa chữa lỗi đều được tiến hành dựa vào sự tự giác ý thức của học sinh".Việc động viên học sinh tiếp thu tài liệu chính tả mới càng đặc biệt quan trọng, tính tích cực đó được thể hiện ở sự tập trung chú ý, tập trung tư tưởng cao độ của học sinh trong giờ học, nó đánh dấu mức độ tự giác mà học sinh tiến hành. Xuất phát từ cơ sở tâm lý học, trong dạy học chính tả cần sử dụng phương pháp thích hợp có tác dụng khêu gợi và kích thích sự chú ý của học sinh, tích cực hoá hoạt động của học sinh, làm cho học sinh nhận thức được đầy đủ ý nghĩa thực tiễn của việc học chính tả. 4 1.1. 4 Quy trình dạy chính tả. * Kiểm tra bài cũ: Hs nghe - viết một số từ ngữ đã được học ở bài chính tả trước(hoặc gv nhận xét kết quả bài chính tả tiết trước chấm ở nhà. GV chú ý tổ chức cho cả lớp đều được làm việc. (VD: một hoặc hai hs viết bảng lớp cả lớp viết bảng con.) *Dạy bài mới: +Giới thiệu bài: Nêu yêu cầu của các bài tập chính tả. +Hướng dẫn chính tả. Các hoạt động chính của gv: - Gợi ý HS xác định nội dung bài chính tả (hay tập chép) và nhận xét những hiện tượng chính tả cần lưu ý trong bài (theo SGK). - Hướng dẫn hs nhận xét (phân tích, so sánh, ghi nhớ...) và tập viết các chữ ghi tiếng khó hoặc dễ lẫn(viết bảng). +Hướng dẫn hs viết bài tập chép (nhìn bảng, nhìn sgk), bài nhớ viết hoặc đọc cho hs viết bài chính tả. +Chấm chữa bài. - GV hướng dẫn Hs chấm chữa bài theo bài in trong sgk hoặc theo lời đọc và chỉ dẫn của gv. - GV chấm một số bài, nhận xét và nêu hướng khắc phục lỗi chính tả trong bài +Hướngdẫn hs làm bài chính tả âm, vần: Làm bài tập bắt buộc và một trong các bài tập tự chọn. +Củng cố: Nhận xét tiết học, lưu ý những trường hợp dễ viết sai chính tả trong bài và nêu yêu cầu tiếp tục luyện tập. 1.1.5. Nội dung chương trình. *Chương trình: Chương trình học chính tả của lớp 3 gồm 35 tuần (Trong đó có 4 tuần dành ôn tập là: tuần 9, tuần 18, tuần 27, tuần 35) . Như vậy số tuần học chính tả là 31 tuần. Mỗi tuần gồm 2 tiết. Một năm có 62 tiết chính tả. *Nội dung: +Chính tả đoạn, bài (viết cả đoạn hay viết một bài văn ngắn),bao gồm: .Tập chép (nhìn -viết) .Nghe viết. .Nhớ - viết. +Chính tả âm,vần ( viết các âm, vần dễ lẫn)bao gồm; .Điền một ký hiệu vào chỗ trống để hoàn chỉnh một tiếng . Điền một tiếng vào chỗ trống để hoàn chỉnh một từ. 5 .Điền một ký hiệu, một tiếng hoặc một từ vào chỗ trống để hoàn chỉnh một câu thơ, câu văn .Tìm trong bài đọc những tiếng chứa các âm, vần dễ lẫn .Dựa vào nghĩa đã cho, tìm các tiếng chứa những âm, vần dễ lẫn. *Ưu điểm, nhược điểm +Ưu điểm: - Phân môn chính tả chú ý đến tính đa dạng của bài tập để tránh sự đơn điệu,nhàm chán, đồng thời hình thành cách nói, cách nghĩ, cách làm mềm dẻo, linh hoạt ở hs. - Bớt hình thức tập chép: Chỉ còn 4 bài cả năm tập trung ở tuần đầu của năm học; thêm hình thức luyện mới là nhớ - viết (Chính tả trí nhớ) +Nhược điểm: Số tiết chính tả tập chép còn ít . 1. 2 Thực trạng của vấn đề nghiên cứu. 1.2.1Thực trạng dạy - học *Dạy của gv: Trong quá trình dạy phõn môn Chính tả, tôi đã phỏng vấn và trao đổi với các đồng chí dạy trong khối, trong trường và các đ/c ở trường bạn.Tôi nhận thấy rằng: - Đa số các đồng chí Gv chuẩn bị bài lên lớp chu đáo, đã có sự đầu tư trong tiết dạy, chuẩn bị đồ dùng, bảng phụ cần thiết cho các bài tập. GV đã nghiên cứu kĩ mục đích cần đạt của giờ dạy để truyền đạt đến hs. - Khâu chấm chữa bài cho hs cẩn thận, chu đáo, chấm tay đôi cùng học sinh và đó phát hiện những lỗi sai kịp thời để hs sửa chữa.Song số bài chấm còn hạn chế vì cũn căn cứ theo thời gian nên việc sửa lỗi cho hs còn ít. - Khi học sinh đọc, viết gv yêu cầu hs đọc đúng và phát âm chuẩn để viết đúng, chú ý sửa sai kịp thời cho hs. Luyện viết những chữ khó hay sai. - Giọng đọc của gv rõ ràng, tốc độ vừa phải đảm bảo thời gian để hs viết được. - Gv cũng đã áp dụng phối kết hợp các phương pháp trong tiết dạy, hình thức dạy học phong phú linh hoạt nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. GV cho hs viết bài và đổi vở kiểm tra bài cho bạn nhằm phát hiện lỗi sai. - Đa số GV còn chịu ảnh hưởng khá nhiều tiếng địa phương nên phát âm Tiếng Việt vẫn chưa được chuẩn. *Học của hs: - Hs có đủ đồ dùng dạy học cần thiết phục vụ cho học tập. - Phần đông các em viết chữ rõ ràng, đúng chính tả, trình bày bài khoa học. Song bên cạnh cũng không ít hs viết sai nhiều, chữ xấu, viết bài chưa ngay ngắn. 6 - Các em còn nói tiếng địa phương nhiều, đặc biệt là vốn từ hạn chế, chưa hiểu nghĩa của một số từ trong bài viết dẫn đến tình trạng viết sai chính tả. 1.2.2 Thực trạng về lỗi chính tả phổ biến của học sinh. Trong quá trình dạy học tôi được nhà trường phân công dạy lớp 3.Tôi thấy học sinh viết sai lỗi chính tả rất nhiều. Qua nghiên cứu dự giờ đồng nghiệp và thực trạng của lớp 3A tôi phụ trách kết quả khảo sát đầu năm học 2010- 2011, tôi đã phát hiện ra lỗi chính tả phổ biến của học sinh là: Sai về phụ âm đầu và phụ âm cuối. Ngoài ra còn sai về âm đệm, âm chính và thanh điệu, sai về dấu thanh... *Lỗi về dấu thanh: Tiếng Việt có 6 dấu thanh (Ngang, huyền, sắc, hỏi , ngã, nặng) Phần lớn hs không phân biệt 2 thanh hỏi và ngã. Vídụ: Sữa xe đạp (Sửa xe đạp), hướng dẩn (hướng dẫn), giử gìn(giữ gìn), dổ dành,(dỗ dành) , lẩn lộn (lẫn lộn) ... *Lỗi về phụ âm: Do phát âm của địa phương nên học sinh lẫn lộn phụ âm đầu như: ch/tr; s/x; d/gi/r; . c/k, gh/g Vidụ: +c/k: Céo co,(kéo co); canh kua(canh cua)... +g/gh: Ngỉ ngơi, (nghỉ ngơi); nge nhạc (nghe nhạc), nghành nghề (ngành nghề)... +ch/tr: Cây che (cây tre), chiến chanh_(chiến tranh), trăm học, (chăm học ) con châu (con trâu)............ +s//x : Cây xả(cây sả), xa mạc (sa mạc), sương xớm (sương sớm) *- Lỗi âm cuối ,vần : Học sinh nhầm lẫn không phân biệt được âm cuối Ví dụ: + at/ ac- ăt/ăc - ât/âc: mác mẻ (mát mẻ), lừa gạc (lừa gạt), gặc lúa (gặt lúa), nổi bậc (nổi bật), lấc phấc (lất phất) .. +an/ ang, ân/ âng: cây bàn(cây bàng), bàng bạc (bàn bạc), khoai lan,(khoai lang) hụt hẫn, (hụt hẫng) ; tần lầu (tầng lầu) .... +âu/ôi: Ông nậu (Ông nội), cái gấu (cái gối) .. +ên/ ênh: bấp bên (bấp bênh), nhẹ tên (nhẹ tênh), ghập ghền (ghập ghềnh), khấp khển (khấp khểnh) .... *Lỗi viết hoa tuỳ tiện, không hiểu nghĩa của từ. 7 Do các em còn nhỏ khả năng tập trung chưa cao,mức độ phân biệt nghĩa của từ cũn hạn chế, nhất là việc xỏc định đỳng danh từ riờng và danh từ chung chưa tốt, chưa nắm vững cỏch viết tờn riờng Việt Nam, tờn riờng nước ngoài nên bài viết còn viết hoa tuỳ tiện ,không đúng theo quy định. Qua đợt kiểm tra khảo sát đầu năm học 2010-2011 của lớp tôi chủ nhiệm, số học sinh sai lỗi chính tả phổ biến như sau: Tổng Chữ Chữ viết Chữ viết sai Chữ số học viếtđúng, đẹp đúng, chưa đẹp ít lỗi viết sai sinh nhiều lỗi 29 SL TL SL TL SL TL SL T L 5 18 8 27 9 31 7 24 Như vậy qua tổng hợp số liệu trên tôi nhận thấy học sinh viết sai nhiều lỗi chính tả về phụ âm đầu, âm cuối, âm đệm , thanh điệu...Từ kết quả đó tôi thấy đây là vấn đề cần được quan tâm, tìm ra nguyên nhân sai lỗi chính tả của học sinh để có những giải pháp khắc phục. b- Nguyên nhân sai lỗi. Hầu như ai cũng thấy rằng tình trạng viết sai lỗi chính tả của học sinh hiện nay đã đến mức khá trầm trọng, khó có thể khắc phục trong ngày một ngày hai. Không chỉ ở hs Tiểu học mà ngay ở người lớn, tình trạng này rất phổ biến. Có người chống chế rằng víêt sai chính tả thì ai chẳng viết sai, đó là chuyện thường trong sử dụng ngôn ngữ. Có những người viết cả một văn bản dài không sai một lỗi chính tả nào. ở họ có sự thận trọng biết nhường nào tiếng nói của dân tộc mình. Tuy nhiên do chịu ảnh hưởng của các phương án phiên âm dựa theo thực tiễn ngôn ngữ của các nước châu Âu nên cách ghép vần Tiếng Việt có chỗ chưa thật khoa học, hợp lý. Việc học sinh viết sai lỗi chính tả không chỉ riêng ở các trường Tiểu học mà nhìn chung đều có những lỗi sai do vùng miền.Tuy nhiên qua quá trình giảng dạy nhiều năm, tôi thấy học sinh viết sai lỗi do nhiều nguyên nhân: +Do cách phát âm ở địa phương khác nhau, các em nói sao, đọc sao thì viết vậy. +Các em không nắm vững các quy tắc ghi âm của chữ quốc ngữ và càng ít được biết đến "mẹo luật" chính tả cơ bản, đơn giản. +Giáo viên chưa tạo điều kiện cho học được nhìn nghe nhiều,viết nhiều để tạo một thói quen viết đúng. Giáo viên chưa chú trọng đến việc dạy chính tả theo 8 "quy tắc chính tả" học sinh chưa hiểu nội dung ngữ nghĩa của các từ dẫn đến phát âm sai, viết sai. +Nguyên nhân học sinh không hiểu nghĩa của từ, viết hoa tuỳ tiện và sai do đặt dấu thanh không đúng... +Ngoài những nguyên nhân trên, còn một nguyên nhân không kém phần quan trọng là giáo viên chưa chú ý đến đặc điểm phương ngữ của từng vùng miền. Do vậy lỗi sai chính tả của học sinh rất đa dạng cho nên giáo viên cần nắm bắt đặc điểm phát âm và lỗi chính tả phổ biến để có biện pháp khắc phục. Trên đây là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng học sinh viết sai lỗi chính. Là người giáo viên Tiểu học, phải làm thế nào để tất cả học sinh đều viết đúng. Qua quá trình nghiên cứu tôi đã tìm và áp dụng một số biện pháp sau: B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I.Cỏc giải phỏp thực hiện 1.Động viờn học sinh,cha mẹ học sinh mua sắm sỏch vở đầy đủ. 2.Xõy dựng chỉ tiờu, kế hoạch nõng cao chất lượng dạy phõn mụn Chớnh tả. 3.Đổi mới phương phỏp dạy học a.Xõy dựng kế hoạch dạy học b.Tổ chức hoạt động dạyn học trờn lớp c.Dạy phõn mụn Chớnh tả theo đối tượng cụ thể. II. Những biện phỏp thực hiện 1. Chuẩn bị cho tiết dạy- học. Để giúp các em học tốt phân môn chính tả thì việc đầu tiên tôi phải tìm hiểu hoàn cảnh từng học sinh.Tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của từng học sinh xem các em thiếu gì, cần gì?....Trong cuộc họp đầu năm trao đổi với phụ huynh nói cho họ 9 hiểu về việc học nói chung và tầm quan trọng của chữ viết, phân môn chính tả nói riêng. Trong giờ học đầu tiên của năm học, tôi thường dành thời gian cho việc kiểm tra sách vở, đồ dùng học tập cá nhân, phần tôi đặc biệt quan tâm là giúp các em mua vở , chọn bút. Loại vở 4 ly theo tiêu chuẩn, giấy trắng, dòng kẽ rõ ràng, viết không toè mực, không bị trơn, không bị in sang trang khác. Loại vở ô ly này có ô ngang và ô dọc giúp các em uốn nét thẳng, đều và viết các con chữ g, l, y, d, b,...theo mẫu chữ hiện hành không bị đụng nhau giữa hàng trên và hàng dưới. Bên cạnh việc chọn vở việc chọn bút cũng không kém phần quan trọng. Hướng cho các em dùng bút nét thanh nét đậm hoặc bút chữ cái A, bút kim hiệu Thiên Long. Loại bút này có ưu điểm mực chảy đều, không bị toè ngòi làm cho ta cảm giác thoải mái khi viết bài. Khâu chuẩn bị đồ dùng học tập và đồ dùng giảng dạy của giáo viên có đầy đủ .Giáo viên nhắc nhở các em đem đồ dùng phục vụ giờ học gồm: Vở ô ly, bút mực, bút chì, thước kẻ, Sách giáo khoa, vở bài tập Tiếng Việt...Đồ dùng dạy học của giáo viên: Bài chính tả được viết sẵn vào bảng phụ, tranh ảnh minh hoạ cho bài cho bài học .Trước khi lên dạy, tôi cần nghiên cứu kĩ giáo án bám sát vào mục tiêu của bài để xem bài đó có yêu cầu gì? giáo viên cần truyền đạt những gì? kiến thức cần đạt được trong giờ học đó là gì? nhất là một số bài đầu tiên của lớp 3. Như đã nói ở trên học sinh của lớp tôi phần đông là học vùng nông thôn nên lỗi sai nhiều về do tiếng địa phương, nên khi dạy những bài này tôi áp dụng dạy theo khu vực, nghĩa là nội dung giảng dạy phải sát hợp với phương ngữ. Nói cách khác phải xuất phát từ tình hình thực tế mắc lỗi chính tả của học sinh để hình thành nội dung giảng dạy, tôi xác định trọng điểm chính tả cần dạy cho học sinh ở từng khu vực, từng địa phương. 2. Tích cực luyện đọc và phát âm đúng: Lãnh thổ nước ta trải dài từ Bắc đến Nam, qua nhiều vĩ độ.Trên khoảng cách đó, cách phát âm của từng vùng miền khác nhau, nhưng không đến mức miền này nói mà miền khác không hiểu được, như trường hợp của Trung Quốc chẳng hạn.Vì vậy chúng ta chỉ quy định chính tả chứ không quy định chính âm. Nhìn chung người miền Bắc thường những phụ âm đầu l/n, tr/ch, người miền Nam, miền Trung thường nhầm lẫn phụ âm cuối c/t, n/ng, nguyên âm i/iê, thanh hỏi/thanh ngã. Ai cũng biết, phát triển văn hoá đọc sẽ mang lại nhiều lợi ích. Ở các nước tiên tiến, họ rất chú trọng bồi dưỡng văn hoá đọc cho thế hệ trẻ.Vì vậy phụ huynh hs nên tạo cho con em mình thói quen đọc sách báo, giảm bớt thời gian xem ti vi, chơi game. 10

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ky_nang_viet_dung.doc
Giáo án liên quan