Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước đòi hỏi phải đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Nhân tố quyết định thắng lợi là nguồn lực con người Việt Nam trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao, cho nên trước hết phải chăm lo phát triển nguồn lực con người, chuẩn bị lớp người lao động có những phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Điều này cần được bắt đầu từ giáo dục phổ thông.
14 trang |
Chia sẻ: lantls | Lượt xem: 2754 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kĩ năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh lớp 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c câu trả lời), học sinh dựa vào đó để kể lại truyện. Với các câu chuyện dài, nhiều tình tiết, giáo viên sử dụng hình thức kể chuyện này sẽ giúp học sinh dễ dàng kể lại câu chuyện.
Ví dụ như truyện “Kho báu” (lớp 2-tập 2). Nói chung đây cũng là một truyện khá dài, nhưng nếu giáo viên dùng hình thức hội thoại, giao tiếp trong tiết kể chuyện sẽ giúp học sinh kể được câu chuyện dễ dàng hơn, đồng thời giúp học sinh phát huy được khả năng nói của mình. Giáo viên có thể dùng dàn ý dưới đây để giúp học sinh kể lại câu chuyện:
- Đoạn 1: Hai vợ chồng chăm chỉ.
+ Thức khuya dậy sớm.
+ Không lúc nào ngơi tay.
+ Kết quả tốt đẹp.
- Đoạn 2: Dặn con.
+ Tuổi già.
+ Hai người con lười biếng.
+ Lời dặn của người cha.
- Đoạn 3: Tìm kho báu.
+ Đào ruộng tìm kho báu.
+ Không thấy kho báu.
+ Hiểu lời dặn của cha.
Hướng dẫn học sinh kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp.
* Trong sách giáo khoa:
Qua khảo sát sách giáo khoa lớp 2 chương trình mới ta thấy, đây cũng là một hình thức phổ biến của phân môn kể chuyện lớp 2 chương trình tiểu học mới. Hình thức này không có yếu tố tranh ảnh phụ trợ. Song mỗi đoạn truyện thường có 3-4 câu gợi ý ngắn, mỗi câu gợi ý chứa đựng nội dung tổng hợp của đoạn truyện. Những câu gợi ý đó lại gợi lại trí nhớ, trí tưởng tượng của học sinh một cách dễ dàng. Lệnh của hình thức kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp thường là: “Dựa vào các gợi ý sau kể lại từng đoạn của câu chuyện mới học”. Sau khi phát lệnh, giáo viên ghi gợi ý của từng đoạn lên bảng và cho học sinh nhìn vào gợi ý đó để các em có thể kể lại. Tuy nhiên, để cho hình thức này phát huy hiệu quả rèn kĩ năng nói cho học sinh thì giáo viên không nên ghi những gợi ý đó lên bảng ngay, mà cần đưa ra câu hỏi cho học sinh trả lời. Những câu hỏi này phải đảm bảo tính logic của truyện.
Như vậy, ở hình thức này, sách giáo khoa có những dạng bài tập cụ thể sau:
- Dạng 1: Sách giáo khoa đưa ra gợi ý hoặc dàn ý tương đối cụ thể để hướng dẫn học sinh kể lại câu chuyện. Ví dụ: bài Chim sơn ca và bông cúc trắng (Tiếng Việt2-tuần 21). Có một số bài thay dạng bài tập này bằng dạng bài tập “Dựa vào tóm tắt sau kể lại câu chuyện”. Ví dụ: Người làm đồ chơi (Tiếng Việt 2-tuần 34).
- Dạng 2: Nêu những nhân vật trong câu chuyện, kể lại sự xuất hiện của nhân vật, nhắc lại lời nhân vật. Ví dụ truyện Người thầy cũ (Tiếng Việt 2 - tập 1), Bạn của Nai nhỏ(Tiếng Việt 2-tập 1),....
- Dạng 3: Tóm tắt nội dung của từng đoạn bằng một câu và đặt tên cho từng đoạn truyện. Ví dụ truyện Một trí khôn hơn trăm trí khôn (Tiếng Việt 2 –tuần 22).
* Trong sách giáo viên:
Thứ nhất: Dạng bài tập nhắc lại lời nhân vật trong truyện.
Ví dụ truyện “Bạn của Nai nhỏ” (Tiếng Việt 2-tập 1), yêu cầu: nhắc lại lời của Nai bố khi Nai nhỏ kể về bạn, sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:
- Giáo viên cho học sinh nhìn lại tranh, nhớ và nhắc lại lời của Nai cha với Nai nhỏ. (Có thể gợi ý: nghe Nai nhỏ kể lại hành động hích đổ hòn đá to của bạn, cha Nai nói thế nào? Nghe Nai nhỏ kể chuyện người bạn đã nhanh trí kéo mình chạy trốn khỏi con thú dữ, cha Nai đã nói gì? Nghe xong chuyện bạn mình húc ngã lão Sói để cứu Dê non, cha Nai đã mừng rỡ nói với con như thế nào?...)
- Vài học sinh nhắc lại những lời của Nai bố nói với con theo yêu cầu nói trên; giáo viên nhận xét, uốn nắn(nếu cần).
Chú ý: Học sinh chỉ cần nhắc lại đúng ý cơ bản của lời nhân vật (Nai nhỏ, Nai bố), không nhất thiết phải nêu nguyên các câu văn trong sách giáo khoa.
Như vậy, ở dạng bài tập này, sách giáo viên đã hướng dẫn khá cụ thể, chi tiết tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên khi tiến hành tiết dạy kể chuyện. Giáo viên không mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị giáo án. Cũng chính vì vậy mà học sinh được rèn kĩ năng nói tốt hơn.
Thứ hai: Dạng bài kể lại sự xuất hiện của nhân vật.
Ví dụ truyện Người thầy cũ(Tiếng Việt 2-tập 1), yêu cầu: Câu chuyện gồm có mấy nhân vật? Kể lại sự xuất hiện của nhân vật chính(chú bộ đội) ở đoạn 1, sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:
Dạy theo quy trình đã hướng dẫn. Chú ý:
+ Ý nghĩ của Dũng.
- Các nhân vật trong câu chuyện: Dũng, chú bộ đội tên là Khánh (bố của Dũng) và là thầy giáo.
- Mở đầu câu chuyện: sự xuất hiện của nhân vật chính-chú bộ đội. Những chi tiết chính cần kể:
+ Địa điểm diễn ra câu chuyện: trường của Dũng.
+ Thời gian diễn ra câu chuyện: giờ ra chơi.
+ Nhân vật: chú bộ đội.
+ Lí do xuất hiện của nhân vật: đến thăm thầy giáo cũ, cũng chính là thầy giáo của con mình (Dũng).
- Kết thúc câu chuyện:
+ Bố của Dũng chào thầy giáo, ra rể.
Như vậy, cũng giống như dạng bài tập trên, ở dạng bài tập này, sách giáo viên cũng hướng dẫn khá kĩ. Chắc chắn khi nhìn vào những gợi ý này học sinh sẽ kể được truyện.
Thứ ba: Dạng bài tập dựa vào gợi ý, kể laị từng đoạn câu chuyện.
Ví dụ truyện “Chim sơn ca và bông cúc trắng” (lớp 2 –tập 2), yêu cầu: Dựa vào các gợi ý dưới đây, kể lại từng đoạn câu chuyện trên bằng lời của em; sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:
Trước khi kể từng đoạn, giáo viên cho học sinh đọc thầm toàn bộ dàn ý câu chuyện trong sách giáo khoa, trả lời:
- Truyện có mấy đoạn? Nôị dung chính của từng đoạn?
Truyện có 4 đoạn:
+ Đoạn 1: Cuộc sống tự do, sung sướng của Sơn Ca và Cúc.
+ Đoạn 2: Sơn Ca bị cầm tù.
+ Đoạn 3: Trong tù.
+ Đoạn 4: Sự hối hận muộn màng.
- Giáo viên viết nội dung từng đoạn lên bảng.
Qua đây ta thấy: ở dạng bài tập này, sách giáo viên cũng đã hướng dẫn khá kĩ. Điều đó giúp giáo viên rất nhiều trong giờ lên lớp tiết kể chuyện. Bởi giáo viên không mất nhiều thời gian trong việc chuẩn bị giáo án, hơn nữa lại giúp học sinh rèn kĩ năng nói tốt.
4. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện phân vai:
Đây là hình thức thu hút được đông đảo học sinh tham gia. Không chỉ các em tham gia đóng vai có thể hiện tính cách của nhân vật mà các em ngồi dưới theo dõi, cổ vũ hết sức nhiệt tình. Chính sự hứng thú của học sinh là điều kiện tốt để giáo viên rèn luyện kĩ năng nói, giao tiếp cho các em trong giờ kể chuyện.
Ví dụ khi phân vai dựng lại câu chuyện Quả tim khỉ (Lớp 2-tập 2) gọi 3 em: một em đóng vai người dẫn chuyện, một em đóng vai Khỉ, và một em đóng vai Cá sấu. Giọng người dẫn chuyện chậm rãi, nhẹ nhàng; giọng Khỉ ân cần lúc hỏi han Cá Sấu và bình thản khi biết âm mưu của Cá Sấu; giọng Cá Sấu buồn một cách giả dối, đặc biệt là con mắt của Cá Sấu thỉnh thoảng lại liếc sang Khỉ để dò thái độ. Sau khi hướng dẫn xong, có thể giáo viên làm mẫu cho học sinh xem.
Như vậy, những dạng bài tập hình thức kể chuyện phong phú đã thu hút, lôi cuốn các em trong giờ kể chuyện, làm cho các em như sống lại với những nhân vật trong truyện. Với niềm say mê của học sinh cũng như sự dạy dỗ tận tình của giáo viên và phương pháp dạy học phù hợp thì giờ kể chuyện sẽ là một môi trường tốt để rèn luyện kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nói cho học sinh.
C - KẾT LUẬN
1. Kết quả nghiên cứu.
Việc áp dụng một số biện pháp để rèn kỹ năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh ở lớp 2 do tôi chủ nhiệm đã có rất nhiều tiến bộ. Ở mỗi tiết kể chuyện, các em đã biết kể lại câu chuyện ở các mức độ: kể bằng lời trong văn bản, kể bằng lời của mình, kể bằng lời của nhân vật trong câu chuyện. Hầu hết các em đều kể rất tốt, lưu loát, biết thay đổi giọng kể phù hợp với nội dung câu chuyện, bước đầu biết sử dụng điệu bộ, cử chỉ để hỗ trợ cho lời kể. Khi kể, các em biết thay thế, thêm bớt các từ ngữ làm cho câu chuyện sinh động hơn. Hầu hết học sinh đã biết trước được nội dung của câu chuyện nên có rất nhiều thời gian để rèn kĩ năng nói cho học sinh. Đặc biệt khi dùng dàn ý hoặc câu hỏi, rất ít em phải nhìn vào dàn ý đó để kể lại.
Chất lượng khảo sát tháng 3/2009 về khả năng nói của học sinh trong giờ kể chuyện như sau:
Tốt: 5 em = 17,2%
Khá: 12 em = 41,3%
TB: 10 em = 34,4%
Yếu: 2 em = 6,8%
2. Bài học kinh nghiệm
Với phương châm lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người chỉ đạo, hướng dẫn, còn học sinh là người thực hiện triển khai công việc, tôi nghĩ trong giờ dạy, giáo viên nên tạo ra trong lớp học một không khí sôi nổi thoải mái.
Trong giờ kể chuyện học sinh phải được phát huy tối đa khả năng nói của mình. Giáo viên nên dùng các hình thức động viên, khuyến khích các em, đặc biệt là đối với những em rụt rè, chưa tự tin. Ngoài ra, để hình thành kỹ năng kể chuyện cho học sinh còn phụ thuộc vào phương pháp, hình thức tổ chức của giáo viên. Dạy phân môn kể chuyện giáo viên phải đưa ra và lựa chọn những phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp cho việc rèn luyện kĩ năng nói của học sinh. Chẳng hạn về phương pháp: có phương pháp kể chuyện bằng tranh, phương pháp đàm thoại, phương pháp nhập vai, phân vai. Về hình thức tổ chức: hình thức lớp - bài, hình thức học theo nhóm... trong đó hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Hình thức học này giúp học sinh bình tĩnh, tự tin hơn và mạnh dạn nói ra ý kiến của mình. ở đây, học sinh được tham gia nói nhiều hơn, được phát huy khả năng nói của mình. Bởi lẽ ai cũng biết, hoạt động giao tiếp là hoạt động có ý nghĩa sống còn đối với xã hội. Giao tiếp đối với học sinh tiểu học là vô cùng cần thiết. Việc rèn kĩ năng nói trong giờ kể chuyện cũng vậy, nó giúp các em khi tiếp xúc với bạn bè, với thầy cô, với người thân một cách tự nhiên hơn, thân mật hơn và tự tin hơn rất nhiều.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân được rút ra trong quá trình dạy phân môn kể chuyện ở lớp 2. Tôi đã áp dụng những kinh nghiệm trên và đã có hiệu quả nhất định và đây là kinh nghiệm của cá nhân. Trong quá trình viết sáng kiến chắc chắn còn những khiếm khuyết, tôi rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học nhà trường và đồng nghiệp để sáng kiến của tôi sát thực tế hơn và có giá trị trong dạy học kể chuyện lớp 2.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Người viết SKKN: Nguyễn Thị Thu
++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Nguồn:
++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
- website đang xây dựng, cập nhật phần mềm, tài liệu cá nhân có trong quá trình làm việc, sử dụng máy tính và hỗ trợ cộng đồng:
+ Quản lý giáo dục, các hoạt động giáo dục;
+ Tin học, công nghệ thông tin;
+ Giáo trình, giáo án; đề thi, kiểm tra;
Và các nội dung khác.
File đính kèm:
- V2.SKKN.Ren-luyen-ki-nang-noi-trong-gio-ke-chuyen.NLS.doc