Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫnhọc sinh lớp 2 viết đoạn văn miêu tả
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫnhọc sinh lớp 2 viết đoạn văn miêu tả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 ỦY BAN NHÂN HUYỆN HẬU LỘC
 PHÒNG GIÁO DỤC HẬU LỘC
 MỘT SỐ BIỆN PHÁP
HƯỚNG DẪNHỌC SINH LỚP 2
 VIẾT ĐOẠN VĂN MIÊU TẢ
 Họ và tên:Nguyễn Thị Loan
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị : Trường Tiểu học Phú Lộc
 SKKN thuộc lĩnh vực Tiếng việt
 NĂM HỌC: 2010 - 2011
 1 A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI MỞ ĐẦU:
 Miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh, có cảm xúc làm cho 
người nghe, người đọc hình dung được một cách rõ nét vật được tả trong đời 
sống hàng ngày. Qua những bài văn miêu tả làm cho tâm hồn và trí tuệ người 
đọc thêm phong phú, giúp cho ta có thể cảm nhận văn học và đời sống một cách 
tinh tế hơn, sâu sắc hơn. Chính vì thế, trong cuộc sống hàng ngày, muốn mọi 
người cùng nhận ra những điều mình thấy, mình đã làm, đã sống thì chúng ta cần 
miêu tả. Mỗi bài văn miêu tả là sự kết hợp của những nhận xét tinh tế, là sản 
phẩm, là sự đúc kết của việc tiếp thu và vận dụng những kiến thức đã học.Văn 
miêu tả rất phù hợp với đặc điểm tâm lý tuổi thơ (ưa thích sự quan sát, thích 
nhận xét, sự nhận xét thiên nhiên về cảm tính...); góp phần nuôi dưỡng mối quan 
hệ và tạo nên sự quan tâm của các em với thế giới xung quanh trong đó quan 
trọng nhất là với thiên nhiên; góp phần giáo dục tình cảm thẩm mĩ, lòng yêu cái 
đẹp, góp phần phát triển ngôn ngữ ở trẻ. Việc dạy - học Tập làm văn nhất là văn 
miêu tả có vị trí đặc biệt quan trọng. Nó góp phần rèn luyện cho học sinh năng 
lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện thuận lợi cho các em giao tiếp hàng ngày 
và học tập tốt các môn học khác. Chính vì vậy, văn miêu tả được đưa vào nhà 
trường ngay từ bậc Tiểu học. Từ lớp 2, tuy chưa có riêng các tiết học cụ thể thể 
văn miêu tả như các lớp 4, 5 nhưng trong các bài tập của tiết Tập làm văn thì khi 
dạy dạng bài quan sát tranh, trả lời câu hỏi; tả ngắn về một số sự vật có liên quan 
đến mỗi chủ điểm, các em đã bắt đầu làm quen với văn miêu tả. Khi dạy các 
dạng bài tập này, người giáo viên không thể xem nhẹ, coi đây giống như việc 
giải quyết các bài tập thông thường mà phải hướng dẫn cho các em theo một quy 
trình đầy đủ, đảm bảo, giúp các em có thói quen quan sát, biết rung cảm của 
mình vào đối tượng miêu tả, biết sử dụng những từ ngữ có giá trị biểu cảm, tạo 
 2 tiền đề để các em học tốt cách làm các bài văn miêu tả ở lớp trên. Vì vậy, hướng 
học sinh làm tốt dạng bài tập này, đó là vấn đề mà tôi luôn quan tâm và trăn trở. 
 II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: 
1. Thực trạng:
 Qua thực tế giảng dạy và quá trình dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp, tôi 
thấy trong khi dạy và học các bài Tập làm văn miêu tả, giáo viên và học sinh còn 
có những hạn chế sau: 
 a/ Về phía giáo viên:
- Chưa chuẩn bị tốt các điều kiện trước khi dạy – học tiết Tập làm văn.
- Nhiều giáo viên còn dạy theo cách truyền thống, chưa áp dụng các phương 
pháp dạy học mới; còn lệ thuộc quá nhiều vào sách giáo khoa và sách giáo viên 
nên rất ít sự sáng tạo, chưa sinh động, hạn chế khả năng tiếp thu và sáng tạo của 
học sinh. Cách dạy của nhiều giáo viên còn máy móc, công thức, chú trọng lí 
thuyết, coi nhẹ việc luyện kĩ năng, thực hành ít; Không tạo điều kiện cho học 
sinh đuợc quan sát thực tế mà chỉ ngồi trong lớp tưởng tượng về đối tượng quan 
sát hoặc dựa vào văn mẫu. Vì thế, học sinh viết văn một cách máy móc, dập 
khuôn, ý nghèo nàn, lời văn sơ lược, đơn giản, không có cảm xúc chân thực.
- Chưa quan tâm triệt để đến việc nhận xét, sửa chữa cho học sinh sau khi chấm 
bài.
- Bên cạnh đó, do điều kiện giảng dạy của giáo viên còn nhiều khó khăn, các tài 
liệu tham khảo, tranh ảnh, vật thật để học sinh quan sát còn ít. 
 a/ Về phía học sinh:
- Các em chưa có sự chuẩn bị trước cho các tiết học Tập làm văn.
- Chưa biết cách quan sát, sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi làm bài.
- Chưa biết cách ghi chép, tổng hợp những điều quan sát được chọn lọc ý, sắp 
xếp ý để hoàn thiện thành đoạn văn hoàn chỉnh.
 3 - Vốn từ của các em còn nghèo nàn, viết câu sai ngữ pháp, sử dụng các từ gợi tả, 
gợi cảm.
- Nhiều học sinh còn hay e ngại, chưa mạnh dạn trong khi trả lời câu hỏi của 
giáo viên và trao đổi với các bạn trong nhóm. 
2. Kết quả, hiệu quả của những thực trạng nêu trên:
 Từ thực trạng trên, để nắm vững được tình hình học tập của học sinh tôi đã 
tiến hành thực hiện việc khảo sát chất lượng học sinh lớp 2A, Trường Tiểu học 
Phú Lộc do tôi trực tiếp giảng dạy vào đầu năm học 2010 – 2011. Kết quả thu 
được như sau:
 Sĩ Kết quả đánh giá
 số Giỏi Khá Trung bình Yếu
 HS SL % SL % SL % SL %
 26 1 3,8 4 15,4 18 69,2 3 11,5
* Nguyên nhân:
- Thời gian dành cho một bài văn miêu tả còn ít.
- Các em chưa nắm vững cách làm các kiểu bài miêu tả, còn xem nhẹ việc quan 
sát trực tiếp đối tượng miêu tả, còn yếu trong kĩ năng xây dựng bố cục, chọn ý và 
sắp xếp ý, trong dùng từ, diễn đạt. Bài văn của các em còn mang tính kể lể, khô 
khan, thiếu hình ảnh cảm xúc. Từ đó, bài làm của học sinh chỉ đơn thuần như 
theo kiểu viết đủ ý, dập khuôn, ý nghèo nàn, lời văn sơ lược, không thể hiện 
được cảm xúc riêng. Do đó, học sinh cảm thấy ngại khi học Tập làm văn, nhất là 
học dạng văn miêu tả dẫn đến chất lượng dạy học văn miêu tả ở lớp 2 còn chưa 
cao.
 Muốn dạy có hiệu quả các tiết Tập làm văn miêu tả ở Tiểu học nói chung, 
ở lớp 2 nói riêng; người giáo viên không thể không chú ý đến việc giúp học sinh 
phát triển tư duy và hướng dẫn cho học sinh cách viết văn miêu tả bằng cách 
 4 giúp các em biết trả lời câu hỏi đầy đủ, hợp lí; dùng từ đặt câu chuẩn, biết cách 
liên kết câu, biết thể hiện cảm xúc khi miêu tả. Để giúp học sinh học tốt hơn các 
bài Tập làm văn có dạng miêu tả, tôi mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp 
hướng dẫn học sinh lớp 2 viết đoạn văn miêu tả”
 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. GIẢI PHÁP: 
 Từ những thực trạng nêu trên, tôi luôn trăn trở để tìm ra các giải pháp để 
làm thế nào rèn kĩ năng viết văn miêu tả và nâng cao được chất lượng viết văn 
cho học sinh lớp 2. Sau đây tôi xin đưa ra một số giải pháp như sau:
 1. Giáo viên luôn có ý thức nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
 2. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học.
 3. Giáo viên và học sinh chuẩn bị tốt các điều kiện trước khi lên lớp dạy và học 
giờ Tập làm văn.
4. Dạy đầy đủ, đảm bảo quy trình dạy bài văn miêu tả.
II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: 
 Để những giải pháp nêu trên được giải quyết một cách hiệu quả nhất, tôi 
đã thực hiện các biện pháp như sau: 
1. Giáo viên luôn nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ:
- Nghiên cứu nội dung phân môn tập làm văn của khối lớp và của các lớp trên để 
xác định đúng vị trí của mỗi bài học. Từ đó để xác định đúng mục tiêu của bài.
- Tích lũy kinh nghiệm qua quá trình giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp để học hỏi 
và rút kinh nghiệm về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.
- Học tập qua sự góp ý của chuyên môn nhà trường, qua các đợt học tập chuyên 
đề do tổ chuyên môn, nhà trường và phòng giáo dục tổ chức.
 5 - Tự tìm tòi, tham khảo các loại tài liệu như sách giáo viên, sách học sinh, các 
bài văn hay, tập san ..
2. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học:
- Thiết kế, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập bằng nhiều hình 
thức đa dạng, phong phú phù hợp với mỗi bài tập, với trình độ của học sinh.
- Tạo điều kiện cho các em tham gia học tập một cách chủ động, sáng tạo.
- Giáo viên, học sinh chuẩn bị và sử dụng tốt các đồ dùng dạy học trong khi quan 
sát đối tượng miêu tả như tranh ảnh, vật thật, không gian quan sát, đèn chiếu
3. Chuẩn bị tốt các điều kiện trước khi dạy và học giờ Tập làm văn:
a/ Đối với giáo viên:
 Trước khi lên lớp, người giáo viên cần chú ý những điểm sau:
- Nắm vững mục đích yêu cầu của tiết học, xác định đúng vị trí của tiết học trong 
chương trình Tiểu học và vị trí của nó trong khối lớp đang dạy, xác định rõ các 
đối tượng học sinh để lựa chọn những phương pháp và hình thức tổ chức dạy học 
phù hợp với học sinh, đạt hiệu quả cao nhất sau tiết dạy.
- Nghiên cứu kĩ bài dạy, chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi, các phương án mà học 
sinh có thể trả lời để chủ động trong quá trình lên lớp.
- Chuẩn bị các đồ dùng, sự vật hoặc các địa điểm để quan sát.
- Dự kiến phân bố thời gian một cách hợp lí cho mỗi hoạt động.
a/ Đối với học sinh:
- Chuẩn bị đầy đủ sách giáo khoa, vở bài tập và các dụng cụ học tập khác.
- Đọc, tìm hiểu trước nội dung bài sẽ học.
- Chuẩn bị đối tượng quan sát như tranh ảnh, vật thật mang đến lớp; quan sát đối 
tượng trước theo yêu cầu của giáo viên. 
4. Dạy đầy đủ, đảm bảo quy trình dạy bài văn miêu tả:
4.1. Hướng dẫn học sinh đọc kĩ đề bài và nắm vững yêu cầu của đề bài:
 6 Hướng dẫn học sinh làm bất kì bài văn nào thì giáo viên cũng phải hướng 
dẫn các em tìm hiểu đề, nắm bắt yêu cầu đề ra. Đây là khâu đầu tiên và vô cùng 
quan trọng, giúp học sinh hiểu yêu cầu của đề bài, nắm được thể loại văn, xác 
định đúng đối tượng miêu tả và trọng tâm miêu tả. Từ đó, các em sẽ làm bài tốt 
hơn. Mặt khác, việc làm này còn tạo cho các em có thói quen làm việc khoa học, 
có trình tự, tạo tiền đề để học sinh có thể học tốt hơn Tập làm văn ở các lớp trên.
 Với mỗi đề bài tập làm văn đưa ra, thường ở lớp 2 chỉ là một bài tập của 
tiết học, tôi thường yêu cầu các em đọc kĩ yêu cầu bài tập, xác định các từ trọng 
tâm của đề bài, giáo viên gạch chân các từ đó và hướng dẫn học sinh về thể loại, 
kiểu bài, nội dung miêu tả, trọng tâm miêu tả.
Ví dụ 1: Tuần 10 – Bài tập 2 (TV2, tập 1- trang 85)
 Viết một đoạn văn ngắn kể về ông, bà hoặc một người thân của em.
 Với đề bài trên, giáo viên hướng dẫn các em xác định yêu cầu của đề bài 
như sau:
+ Em hãy đọc kĩ yêu cầu bài tập và cho biết đề bài yêu cầu gì? (Viết một đoạn 
văn ngắn kể về ông, bà hoặc một người thân của em.)
+ Người thân trong gia đình em gồm những ai? (HS nêu)
+ Em định chọn ai trong những người thân của gia đình em để tả? (HS nêu)
+ Kể về mẹ, vậy em kể về những điều gì? (Kể đôi nét về hình dáng, tính tình, 
những việc mẹ thường làm )
+ Kể hình dáng của mẹ, em kể những gì? (Tuổi, làn da, mái tóc, dáng người )
+ Kể những việc làm của mẹ, em định kể những gì? (Việc mẹ thường làm, sự 
chăm sóccủa mẹ đối với em và gia đình )
 Từ những bước gợi mở, hướng dẫn như trên, giáo viên chỉ cho học sinh: 
Quá trình kể về mẹ như vậy tức là các em đang miêu tả về mẹ. Khi viết đoạn văn 
như yêu cầu trên, tức là ta đang tả về mẹ của mình. Giáo viên có thể nói thêm: 
Đây chính là thể loại văn miêu tả, đối tượng miêu tả ở đề bài này là mẹ.
 7 Ví dụ 2: Tuần 16 – Bài tập 2 (SGK tập 1 - trang 137.)
 Kể về một con vật nuôi trong nhà mà em biết.
 Với đề bài trên, giáo viên hướng dẫn các em sẽ xác định yêu cầu của đề 
bài như sau:
- 2 HS đọc yêu cầu bài tập, cả lớp đọc thầm theo.
- GV dùng một số câu hỏi để hướng dẫn học sinh nắm vững đề bài:
+ Đề bài yêu cầu gì? (Kể về một con vật nuôi trong nhà mà em biết).
+ Em hãy kể những con vật nuôi trong nhà mà em biết? (HS kể)
+ Em sẽ chọn con vật gì để tả? (HS nêu)
+ Kể về con vật đó, em sẽ kể những đặc điểm gì? (Kể đôi nét về hình dáng; hoạt 
động, thói quen của con vật; tình cảm của em dành cho con vật đó )
4.2. Hướng dẫn học sinh quan sát và ghi lại những nội dung từ đối 
tượng cần tả:
4.2.1. Tạo điều kiện cho học sinh quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả:
- Khi làm bài văn miêu tả thì việc quan sát trực tiếp sự vật rất quan trọng. Khi 
hướng dẫn học sinh quan sát, tôi đã hướng cho học sinh quan sát bằng nhiều giác 
quan như thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác và nhìn sự vật bằng 
cách nhìn thẩm mĩ.
- Điều đặc biệt quan trọng là quan sát phải có sự lựa chọn, không nên thấy cái gì 
là tả cái đó mà phải tìm ra nét đặc biệt, tránh việc liệt kê, kể lể khô khan. 
- Khi hướng dẫn học sinh quan sát, tôi hướng dẫn các em quan sát kĩ đối tượng, 
hiểu và phát hiện các chi tiết đặc điểm của nó.
Ví dụ 1: “Viết về một loài chim mà em thích - Bài tập 3, TV2, tập 2 trang 30”. 
- Khi hướng dẫn học sinh quan sát một loài chim mà em thích, tôi chuẩn bị sẵn 
một số loài chim thật và hệ thống câu hỏi. 
TiÕp theo, tôi đưa hệ thống câu hỏi gợi ý để định hướng cho các em quan sát:
+ Lông chim màu gì? (Lông chim màu nâu/ đen/ xanh trên cổ có pha trắng )
 8 + Dùng tay sờ vào bộ lông, em thấy thế nào? (Mượt/ êm như nhung/ rất thích )
+ Mỏ chim như thế nào? Em thấy mỏ chim giống đồ vật gì? (Mỏ nhọn, giống 
đầu bút chì/ Mỏ nhỏ xinh xắn, giống hai mảnh vỏ trấu chắp lại )
+ Mắt chim như thế nào? (Mắt nhỏ, đen như hai hạt đậu)
+ Chân chim thế nào? (Đôi chân nhỏ có các ngón chân xòe ra, đầu ngón chân có 
móng sắc nhọn/ nhỏ như hai chiếc tăm )
- Để kết quả quan sát được phong phú hơn, tôi cho các em ra vườn trường. Tôi 
đã hướng dẫn các em quan sát bằng một số câu hỏi gợi ý như sau:
+ Em nghe thấy tiếng chim hót thế nào? (Rất hay/ ríu rít/ vui tai )
+ Hoạt động của chim như thế nào? ( Lúc đậu: thu đầu lại như đang ngủ/ đi lại 
trên cành lá tìm sâu ; Lúc bay: dang đôi cánh chao liệng/ vui đùa cùng những 
chú chim bạn)
Sau đó, tôi gợi ý học sinh tả cảnh vật xung quanh bằng một số câu hỏi gợi ý:
+ Bầu trời như thế nào? (Bầu trời trong xanh/ ông mặt trời tỏa ánh nắng vàng 
tươi )
+ Cây lá như thế nào? (Cành cây đung đưa theo gió/ đùa vui cùng chim chóc và 
mặt trời .)
+ Em có ngửi thấy mùi thơm của hương hoa đâu đó không?
- Yếu tố tưởng tượng trong văn miêu tả cũng đóng vai trò rất quan trọng không 
thể thiếu được. Nhờ có tưởng tượng mà những hình ảnh, màu sắc, âm thanh đều 
có thể hiện lên trước mắt một cách sống động. Tôi đã hướng dẫn các em quan sát 
phải gắn liền với so sánh, liên tưởng: Tìm ra những nét đồng nhất, độc đáo của 
sự vật gắn liền với tình cảm.
Ví dụ 2: “Tả ngắn về biển” (Bài tập 2 trang 76-TV2, tập 2).
 Khi hướng dẫn học sinh, ta không thể đem biển về để các em quan sát và 
rất ít em đã được nhìn thấy cảnh biển thât. Bởi vậy, nếu có điều kiện, tôi cho các 
em quan sát qua trình chiếu cảnh biển bằng đèn chiếu. Nếu không có điều kiện 
 9 thì tôi dùng tranh ảnh vẽ cảnh biển. Vậy để tả được biển một cách sinh động, hấp 
dẫn thì yếu tố tưởng tượng là rất quan trọng. Tôi đã hướng dẫn các em như sau:
+ Mặt biển như thế nào? (Rất rộng/ rộng mênh mông/ không thấy bờ )
+ Nước biển màu gì? (Nước biển trong xanh/ nước biển xanh biếc )
+ Trên mặt biển, em thấy những gì? (Sóng biển, có thuyền đánh cá)
+ Em thấy sóng biển như thế nào? (Sóng biển tung bọt trắng xoá/ Những con 
sóng bạc đầu nối đuôi nhau xô vào bãi cát )
+ Tiếng sóng vỗ thế nào? (Sóng biển rì rầm như đang kể chuyện cổ tích...)
+ Những chiếc thuyền trên mặt biển như thế nào? (Những chiếc thuyền đang 
căng buồm ra khơi đánh cá/ Những chiếc thuyền như những chú lính)
 Tả cảnh biển không chỉ tả những gì về biển mà tôi còn hướng dẫn học sinh 
tả những sự vật xung quanh như: Bầu trời, ông mặt trời, bãi cát, chim 
4.2.2. Hướng dẫn học sinh ghi chép lại những điều quan sát được:
 Sau khi giáo viên gợi ý cho học sinh trả lời miệng lần lượt theo câu hỏi 
của giáo viên, việc tiếp theo là giáo viên cho học sinh ghi chép lại vào vở nháp 
những điều được quan sát theo hệ thống câu hỏi một cách vắn tắt, ghi những ý 
quan trọng để phục vụ cho việc viết đoạn văn. Giáo viên cần lưu ý học sinh ghi 
theo hệ thống (tránh việc ghi lộn xộn) để khi các em viết đoạn văn cũng tránh 
được việc sắp xếp các ý lộn xộn.
- Trước hết, giáo viên phải đưa học sinh đến điểm cần quan sát hoặc cho học 
sinh quan sát bằng tranh ảnh phóng to.
- Giáo viên đưa hệ thống câu hỏi gợi ý, hướng dẫn học sinh quan sát bằng các 
giác quan, hiểu và phát hiện các chi tiết đặc điểm của đối tượng.
- Hướng dẫn học sinh quan sát phải có sự lựa chọn, không nên thấy cái gì là tả 
cái đó mà phải tìm ra nét đặc biệt, độc đáo chủ yếu của sự vật, hiện tượng, tránh 
liệt kê, kể lể khô khan.
 10
            File đính kèm:
 sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_huong_danhoc_sinh_lop.doc sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_huong_danhoc_sinh_lop.doc





