MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
III. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
IV. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU:
V. CƠ SỞ LÍ LUẬN KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN:
1. Cơ sở lí luận khoa học:
2. Cơ sở thực tiễn:
VI. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN:
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. THỰC TRẠNG VÀ MÂU THUẪN:
1. Thực trạng:
2. Mâu thuẫn:
II. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh:
2. Mở rộng câu đúng thành câu hay:
3. Tìm hiểu cấu tạo bài văn tả cảnh hoặc tả người;
4. Phân tích các văn bản mẫu:
5. Quan sát lập dàn ý chi tiết:
6. Chuyển một phần dàn ý thành đoạn văn:
7. Viết thành bài văn hoàn chỉnh:
8. Bộc lộ cảm xúc trong bài văn:
III. HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG:
1. Đối với giáo viên: .
2. Đối với học sinh:
C.KẾT LUẬN
I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC:
II: BÀI HỌC KINH NGHIỆM, HƯỚNG PHÁT TRIỂN:
III, ĐỀ XUẤT:
13 trang |
Chia sẻ: ngocnga34 | Lượt xem: 694 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn lớp 5, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có những hiểu biết đầy đủ, phong phú và chính xác. Quan sát trực tiếp còn cho ta cảm xúc “ nóng hổi” để đưa vào bài viết, tránh được sự tẻ nhạt.
Bên cạnh, giáo viên cần nhắc các em quan sát phải đi đôi với việc tìm từ ngữ để diễn tả đúng và sinh động điều đã quan sát được.
Cân nhắc để lựa chọn được một thứ tự sắp xếp các chi tiết sẽ tả mà mình coi là thích hợp hơn cả.
Khi vào học bài mới, giáo vên luôn luôn nhắc học sinh nhớ: Mỗi bài văn cần có bố cục 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Với mỗi bài văn, công việc đầu tiên của tôi là yêu cầu học sinh tìm hiểu đề bài, học sinh đọc kĩ đề bài nhiều lần rồi trả lời các câu hỏi về vấn đề chính trong đề bài. Đề bài thuộc thể loại gì? Đề bài yêu cầu tả gì?
Giáo viên gạch chân bằng phấn màu dưới các từ ngữ quan trọng để học sinh chú ý. Nếu đối tượng miêu tả không thực tế và gần gũi với học sinh (Tả cảnh con sông, tả cảnh ở công viên,), thì giáo viên cần giới thiệu một số tranh ảnh minh họa cho học sinh quan sát.
Hướng dẩn học sinh lập dàn ý từ những điều quan sát được.
Ví dụ: * Quan sát trường em. Từ những điều đã quan sát được, lập dàn ý cho bài văn miêu tả ngôi trường (sách Tiếng Việt 5 - Tập 1 - Trang 43)
Trước khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý, nhắc học sinh một số điểm lưu ý:
+ Có thể tả ngôi trường vào một thời điiểm nhất định (sáng, trư , chiều mùa đông - mùa hè..). Cũng có thể tả ngôi trường với cảnh sắc thay đổi theo thời gian (Từ sáng đến chiều, từ mùa xuân đến mùa hè).
+ Nên tả theo trình tự quan sát từ xa đến gần, từ ngoài vào trong hoặc ngược lại, tả gần đến xa , từ trong ra ngoài.
+ Ngôi trường nào cũng gắn với các hoạt động của thầy và trò.Tuy nhiên chỉ nên tả lướt qua hoạt động này, để không biến bài văn tả cảnh thành bài văn tả cảnh sinh hoạt.
Sau khi nêu một số điểm lưu ý để học sinh nhớ, giáo viên hướng dẫn học sinh cách lập dàn bài.
- Giúp học sinh nắm yêu cầu của bài: Miêu tả ngôi trường.
- Nhắc học sinh: Dàn ý cũng cần có đủ ba phần: Mở bài, thân bài, kết bài.
- Phần mở bài cần giới thiệu bao quát:
+ Vị trí của ngôi trường: Ngôi trường nằm ở đâu? Quay mặt về hướng nào?
+ Nêu đặc điểm nổi bật của ngôi trường.
Phần thân bài gồm các ý: Tả từng phần của cảnh trường:
+ Cổng trường (cổng như thế nào? Bảng tên trường ra sao?)
+ Sân trường (Sân trường ra sao? Cột cờ,cây cối như thế nào?)
+ Lớp học (Các tòa nhà như thế nào? Các lớp học được trang trí ra sao?)
- Phần kết bài cần nêu cảm nghĩ của em về ngôi trường.
Như vậy, mỗi em mỗi ý, mỗi vẻ khác nhau nhưng đều đảm bảo đủ ý chính.
6. Chuyển một phần dàn ý thành đoạn văn:
Để học sinh diễn đạt bài văn của mình một cách sinh động, có nghệ thuật, các em thường được trau dồi qua tiết học “Chuyển một phần dàn ý thành đoạn văn”.
- “Một phần của dàn ý” có thể là mở bài, kết bài, cũng có thể là một phần của thân bài.
- Phần này, giáo viên cần nhắc nhở các em vận dụng cách mở rộng câu đúng thành câu hay để đưa vào bài văn.
* Phần mở bài:
Các em có thể mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp, có em có thể mở bài chỉ bằng một câu, nhưng cũng có em mở bài bằng cả một đoạn văn. Nhưng không ai được tách rời nội dung đã xây dựng được. Ở đây, tùy nghệ thuật vào bài văn của mỗi em mà giáo viên góp ý không nên gò bó áp đặt.
Ví dụ:
* Đề bài: “Miêu tả một cảnh sông nước (Một vùng biển, một con sông, một con suối hay một hồ nước) (Tiếng việt 5- Tập một - Trang 62).
- Có em mở bài thẳng luôn vào đề: “Quê em có một con suối rất đẹp”.
- Có em mở bài rất sinh động: “Mỗi miền quê có một vẻ đẹp riêng. Quê hương tôi có một dòng suối hiền hòa quanh năm nước chảy”.
Nhờ khuyến khích học sinh diễn đạt phần mở bài bằng những cách khác nhau, mà vẫn đảm bảo nội dung chính, các em đã viết được nhiều bài văn hay, có tính nghệ thuật.
* Phần thân bài:
- Đa phần các em rơi vào tình trạng liệt kê các chi tiết của cảnh, hoặc của người.
Ví dụ: Mẹ em có mái tóc dài, dáng người cao, hàm răng trắng,Vì vậy giáo viên cần lưu ý cách mở rộng câu đúng thành câu hay, để học sinh vận dụng thì bài văn sẽ hay hơn.
- Điều quan trọng là lưu ý cho học sinh phải bám vào các chi tiết đã lập ở dàn bài, để chuyển thành bài văn, đoạn văn. Tránh một số trường hợp học sinh viết bài văn một cách ngẫu hứng, không bám theo dàn ý đã lập, làm cho bài văn có thể sẽ mất đi tính lôgic hay tính cân đối, do không chủ động được thời gian.
* Phần kết bài:
Có nhiều cách kết bài khác nhau: kết bài mở rộng, kết bài không mở rộng, nhưng tất cả đều phải xuất phát từ nội dung chính. Vì vậy, giáo viên cần giúp các em nêu cảm xúc một cách chân thực, tránh sáo rỗng. Đồng thời mở rộng thêm về ý thức, trách nhiệm giữ gìn đối với cảnh và nêu việc làm cụ thể để bày tỏ cảm xúc chân thực.
7. Viết thành bài văn hoàn chỉnh:
Để giúp học sinh viết một bài văn hoàn chỉnh, tôi tiến hành các bước:
+ Tập diễn đạt câu văn có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp nghệ thuật đã học.
- Để tiến hành, tôi gợi ý cho các em những câu hỏi dễ hiểu, dễ nhớ.
- Tôi luôn hướng dẫn các em biết cách lựa chọn chi tiết, diễn đạt bằng câu văn có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp tu từ đã học như: so sánh, nhân hóatrong các kiểu bài tập làm văn.
+ Tuy nhiên khi vận dụng những hình ảnh so sánh, nhân hóa đôi khi học sinh dùng những hình ảnh chưa chính xác.
* Chẳng hạn với đề bài: “Tả một người thân trong gia đình em”. Có em chọn tả chị gái của mình.Tôi hỏi:
+ Hình dáng (mái tóc, hàm răng, nước da) của chị tả như thế nào?
- Học sinh nêu:
+ Mái tóc của chị đen và dài như những sợi dây.
+ Nước da của chị đen như mun.
+ Răng của chị rất trắng
- Chính vì thế, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết cách dùng những hình ảnh so sánh hợp lí hơn.
Ví dụ: Mái tóc của chị gái em đen và mượt mà như dòng suối xõa xuống ngang vai. Mỗi khi chị cười để lộ hành răng trắng đều như hạt bắp. Chị em có làn da ngăm đen nhưng trông chị rất có duyên.
- Tương tự, trong các đề bài khác giáo viên cũng nên hướng dẫn cho các em:
+ Cô hiền như cô Tấm trong truyện cổ tích.
+ Mái tóc của bà trắng như mái tóc của các diễn viên trong tuồng chèo.
- Ngoài ra, giáo viên nên kết hợp những câu hỏi gợi ý để giúp học sinh bổ sung, sửa chữa các câu văn, đoạn văn chưa sử dụng biền pháp nghệ thuật.
8. Bộc lộ cảm xúc trong bài văn:
- Ngoài việc giúp học sinh sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong các câu văn, giáo viên cần giúp học sinh biết bộc lộ cảm xúc trong bài văn. Bởi một bài văn hay không thể thiếu được cảm xúc của người viết. Cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết bài, mà còn cần thể
hiện trong từng câu, từn đoạn của bài văn. Điều này chúng ta cần gợi ý cho các em một cách cụ thể trong từng bài.
Ví dụ:
- Được sống với ông bà em thấy như thế nào?
(Bà gần gũi, chăm sóc em chu đáo như một bà tiên hiền hậu, em luôn giúp bà làm mọi việc để bà đỡ vất vả).
- Được bà chăm sóc hằng ngày em nghĩ gì?
(Tình cảm gần gũi thương yêu của bà, như chắp cánh cho em vững bước trong cuộc đời)
Tương tự như vậy, tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm xúc nhận xét trước một sự vật, hay một hiện tượng bất kì. Bài văn của học sinh tránh được những nhược điểm khô khan, liệt kê sự việc, mà ngược lại thể hiện cảm xúc dồi dào của người viết.
III. HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG:
1. Đối với giáo viên: Đề tài đã được vận dụng vào quá trình giảng dạy, tạo sự hứng thú của học sinh trong giờ dạy.
2. Đối với học sinh:
Qua quá trình áp dụng giảng dạy theo phương pháp trên trong năm học 2013-2014 này, đến nay tôi nhận thấy các em có nhiều tiến bộ so với đầu năm học. Những học sinh yếu về kỹ năng viết văn miêu tả đã mạnh dạn, tự tin và hứng thú hơn trong giờ học Tập làm văn. Còn những em học lực trung bình và khá đã tự mình viết được bài văn, đoạn văn theo yêu cầu của đề bài. Tuy những bài văn, đoạn văn có những chỗ chưa hay, chưa sinh động nhưng các em đã tự viết bằng chính tư duy của mình.
Mặc dù mới chỉ áp dụng giảng dạy phân môn Tập làm văn theo các biện pháp trên đến nay dù chưa hết học kì, nhưng bằng cách thu thập số liệu qua khảo sát bằng hình thức làm bài kiểm tra, tôi thống kê được kết quả đạt như sau:
Bảng III. Bảng thống kê số liệu kết quả khảo sát qua bài kiểm tra:
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
24
4
16.7
7
29.7
11
45.3
2
8.3
Nhận xét: Từ bảng III so với bảng khảo sát chất lượng đầu năm cho thấy, tỉ lệ học sinh Khá – Giỏi tăng cao hơn, tỉ lệ học sinh trung bình-yếu giảm đi.
Kết quả đạt được như trên tuy chưa cao, nhưng đã phần nào cho thấy sáng kiến khi được ứng dụng vào thực tế, cho kết quả khả quan. Do vậy, từ nay đến cuối năm học tôi luôn cố gắng phát huy, vận dụng phương pháp một cách linh hoạt để học sinh lớp tôi đạt chất lượng tốt hơn, nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong sáng kiến. Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
C. KẾT LUẬN
I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC:
Tập làm văn là phân môn tổng hợp của tất cả các môn trong phân môn Tiếng Việt. Học tốt tập làm văn giúp các em có nền tảng vững chắc để học tốt các môn học khác. Với việc nghiên cứu và áp dụng những biện pháp của đề tài này, tôi thấy bước đầu mang lại kết quả tốt.
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM, HƯỚNG PHÁT TRIỂN:
Tuy nhiên học tập là một quá trình, muốn đạt được kết quả cần có sự hợp tác từ nhiều phía, đặc biệt là học sinh và giáo viên. Hơn nữa, học tập làm văn cần có sự tích hợp của nhiều môn khác, các em phải có vốn hiểu biết về các hiện tượng tự nhiên và xã hội xung quanh chúng ta, thì các em mới đưa các hình ảnh, các dẫn chứng vào bài văn của mình, để bài văn sinh động, hấp dẫn hơn. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng học tập làm văn của học sinh lớp 5, làm nền tảng cho việc học tốt các môn học khác, đáp ứng nhu cầu về chất lượng mà xã hội đặt ra cho ngành Giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
III. ĐỀ XUẤT: Dù sao đề tài trên cũng chỉ là sáng kiến mang tính cá nhân, nên không thể tránh khỏi những hạn chế. Vậy kính mong quý thầy cô đón nhận và đóng góp ý kiến, để đề tài được hoàn thiện hơn và để thu được kết quả tốt hơn.
Hòa Sơn, ngày 05/12/2013
Người trình bày
Huỳnh Thị Hậu
File đính kèm:
- skkn Huynh Thi Hau.doc