Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm dạy phần đọc - hiểu văn bản trong phân môn Văn ở lớp 9
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm dạy phần đọc - hiểu văn bản trong phân môn Văn ở lớp 9, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9
KINH NGHIỆM DẠY PHẦN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN TRONG
PHÂN MÔN VĂN Ở LỚP 9
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
I. LỜI MỞ ĐẦU:
Nhà văn Mác-xim Gor-ki, đại văn hào Nga đã nói: “Văn học là nhân học”. Văn
học là cái gì đó rất đỗi gần gũi với con người, giúp phát triển nhân cách con người,
giúp người hiểu người hơn. Văn học xuất phát từ con người, và dù nó có bay cao,
bay xa, dù có thăng hoa đến đâu cũng hướng tới con người. Bất cứ ai muốn thành
công trong bất kì lĩnh vực nào của cuộc sống cũng cần có vốn sống và vốn ngôn
ngữ mà văn chương đem lại.
Là một giáo viên dạy môn Ngữ văn đã lâu năm, đặc biệt lại hay được phân công
dạy ở lớp 9, lớp cuối của cấp học, bản thân tôi luôn trăn trở để tìm ra những
phương pháp hiệu quả nhất trong giảng dạy nhằm góp phần nâng cao chất lượng
đại trà, chú trọng chất lượng mũi nhọn bộ môn Ngữ văn ở cấp Trung học cơ sở nói
chung, lớp 9 nói riêng. Qua quá trình nhiều năm giảng dạy với nhiều đối tượng học
sinh: giỏi, khá, trung bình, yếu kém, tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm nhỏ bé
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của tiết dạy phân môn văn ở lớp 9.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
1. Thực trạng:
Nhiều năm qua việc dạy và học môn Ngữ văn trong các trường phổ thông nói
chung và ở cấp Trung học cơ sở nói riêng không đạt được chất lượng và hiệu quả
cần thiết cho môn học này. Môn Ngữ văn dù là môn học chính, được nhân hệ số 2
trong các kì thi nhưng vẫn không thu hút được sự say mê của phần lớn học sinh các
cấp học, đặc biệt là cấp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông. Các em ngại đọc
bài, ngại viết bài, ngại nghe giảng, ngại làm bài tập, ngại cả luyện viết
hàng ngày. Trong phân môn Văn học có yêu cầu soạn bài trước khi đến lớp thì
Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 1 Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9
các em làm qua loa chiếu lệ, chép sách “Để học tốt Ngữ văn” hoặc chép của nhau
nhằm đối phó với thầy cô bộ môn. Vì vậy mà dẫn đến tình trạng môn văn ngày
càng trở thành một môn học khó thu hút được sự hào hứng say mê của học sinh,
nhiều em khi học xong chương trình phổ thông không thể tạo lập một văn bản đơn
giản nhưng cần thiết trong cuộc sống.
Bên cạnh đó có một số em thực sự thích học môn văn, nhưng không phải em
nào cũng có khả năng tiếp thu dễ dàng. Song số học sinh này không nhiều.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, cả nguyên nhân chủ quan và
khách quan. Định hướng của gia đình ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn môn
học của các em. Xu thế chung của các bậc phụ huynh là muốn cho con em mình
học các môn khoa học tự nhiên để thuận lợi cho việc lựa chọn nghề nghiệp sau
này. Trong lựa chọn nghề nghiệp lại có rất ít các trường đại học, cao đẳng tuyển
sinh môn Ngữ văn. Những ngành nghề các em ưa thích, sau này có thu nhập cao,
khối thi thường là các môn khoa học tự nhiên nên số lượng học sinh chọn học các
môn xă hội rất ít.
Song nếu nhìn nhận về phía người thầy thì có một nguyên nhân quan trọng là
cách dạy đơn điệu, nặng về thuyết giảng một chiều, để trò ghi chép rồi học thuộc
các ý của thầy. Cách học theo lối thụ động đó không gây được sự hào hứng tìm tòi
khai phá những điều mới mẻ qua mỗi giờ học, vì thế những kiến thức thu nhận
được trở nên hời hợt, vay mượn, không thấm sâu vào trí tuệ và tâm hồn các em.
2. Kết quả thực trạng trên:
Thực trạng trên dẫn đến kết quả là học sinh ngày càng hờ hững với môn văn,
chất lượng môn học này ngày càng trở nên đáng báo động.
Trong các lần kiểm tra định kì, các kì thi tuyển sinh vào Trung học phổ thông,
chất lượng môn văn nhìn chung còn thấp. Nhiều bài văn của học sinh cho thấy các
em làm bài mà không hiểu vấn đề. Chữ viết của các em còn mắc nhiều lỗi thông
thường về chính tả, ngữ pháp, diễn đạt, chấm câu, tách đoạn tuỳ tiện, không đúng
quy định. Do đó mà chất lượng bộ môn trong các kì kiểm tra và thi vượt cấp còn
hạn chế so với một số môn học khác và so với khả năng của học sinh đối với môn
Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 2 Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9
Ngữ văn.
Trong các kì thi học sinh giỏi, những học sinh được chọn vào học trong đội
tuyển dự thi môn Ngữ văn cũng chưa thực sự tự tin vào khả năng của bản thân, còn
e dè với môn học này. Vì vậy, điểm thi của học sinh môn Ngữ văn còn chưa đồng
đều, số học sinh đạt giải cấp huyện (của trường), cấp tỉnh (của huyện), còn hạn
chế.
Cụ thể:
a) Chất lượng đại trà:
Điểm thi cuối năm học Điểm thi vào lớp 10
Năm học Lớp (TB trở lên) (TB trở lên)
SL % SL %
2007- 2008 9A +9B (Sĩ 60/ 90 66,6 55/ 90 61,1
số 90 HS)
b) Chất lượng mũi nhọn:
Số HS dự thi cấp Số HS đạt giải cấp tỉnh
Năm học tỉnh SL %
2007- 2008 10 04 40,0
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
1. Chuẩn bị kĩ trước khi lên lớp:
2. Vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với đặc trưng của bộ môn.
3. Linh hoạt trong cách thức tổ chức giờ học (giờ dạy chính khoá và giờ dạy học
sinh trong các đội tuyển thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh môn Ngữ văn) để đạt
được hiệu quả giáo dục bộ môn cao nhất.
II. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
Trong các môn học, văn học là một môn rất khó dạy. Bởi vì mỗi giáo viên dạy
Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 3 Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9
môn Ngữ văn không phải là nhà văn, nhà thơ sáng tạo văn chương, nhưng lại là
người truyền thụ văn chương, do vậy mà mỗi giáo viên dạy văn phải có một tâm
hồn nhạy cảm, dễ rung động, cảm thông, vì dạy môn Ngữ văn không chỉ là truyền
đạt kiến thức mà chủ yếu là truyền sự rung cảm trước tác phẩm. Tức là người dạy
văn phải có cảm xúc về tác phẩm và truyền cảm xúc đó đến với học sinh. Người
thầy như là người nhóm lửa, thổi lên ngọn lửa văn chương trong mỗi tâm hồn học
trò. Và muốn được như vậy thì người dạy phải có sự rung cảm sâu sắc và bằng
ngôn ngữ, bằng kĩ thuật diễn đạt làm cho học sinh rung động theo, phải vận dụng
linh hoạt các phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại, các kĩ năng dạy học
phù hợp để làm cho các em hào hứng với giờ học văn.
Vận dụng các giải pháp nêu trên làm định hướng, tôi đã thực hiện các biện pháp
sau đây để nhằm góp phần nâng cao chất lượng đại trà, chú trọng chất lượng mũi
nhọn môn Ngữ văn ở lớp 9:
1. Chuẩn bị kĩ trước khi lên lớp:
a) Trước tiên khi được giao phụ trách các lớp, tôi đã tiến hành tìm hiểu và nắm
vững hoàn cảnh của các em học sinh thông qua sơ yếu lí lịch của các em, thông
qua giáo viên chủ nhiệm, các giáo viên bộ môn khác và việc tự tìm hiểu của bản
thân, sau đó nắm vững lực học của từng học sinh qua các đợt thi khảo sát của Sở
giáo dục, Phòng giáo dục, của nhà trường và qua các bài kiểm tra thường xuyên và
định kì của bộ môn.
b) Khâu chuẩn bị trước khi lên lớp rất quan trọng. Vì vậy trước khi lên lớp, tôi
soạn bài rất kĩ, đọc lại các tài liệu có liên quan để vận dụng, xác định mục tiêu cần
đạt trước khi lên lớp, xác định trọng tâm của bài học để tập trung đào sâu kiến thức
cung cấp cho học sinh.
2. Vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với đặc trưng của bộ môn.
a) Sử dụng đồ dùng dạy học hợp lý:
Trước hết là tôi sử dụng tranh ảnh minh họa:
Việc sử dụng tranh ảnh minh hoạ trong các văn bản Ngữ văn góp phần thực
hiện mục tiêu, yêu cầu của môn học, giúp học sinh nhận thức qua hình ảnh trực
quan, gợi liên tưởng, tạo cảm hứng thẩm mĩ, hứng thú cho các em.
Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 4 Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9
Bên cạnh đó tôi cũng chú ý sử dụng băng hình, băng tiếng như băng tư liệu,
băng tư liệu hướng dẫn nghiệp vụ, băng đọc mẫu để tạo thêm hứng thú cho học
sinh.
Việc sử dụng sơ đồ, bảng phụ cũng có tác dụng khái quát kiến thức của từng
phần, từng giai đoạn để học sinh nắm vững kiến thức của văn bản đã được học nên
tôi cũng rất chú ý tới việc sử dụng loại phương tiện dạy học này.
Đặc biệt việc sử dụng đồ dùng dạy học hiện đại nếu hợp lý sẽ có tác dụng rất lớn
giúp học sinh thâm nhập vào tác phẩm, đó là máy chiếu hắt và máy chiếu đa năng.
Tôi nhận thấy việc sử dụng bài giảng điện tử với những hình ảnh âm thanh sinh
động làm cho học sinh dễ dàng tiếp thu, khắc sâu kiến thức và tăng hứng thú học
tập cho các em. Thông qua bài giảng điện tử, tôi có thời gian nhiều hơn để đặt ra
các câu hỏi gợi mở, nhằm khuyến khích các em tư duy và sáng tạo.
Ví dụ khi dạy Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật
hoặc đoạn trích truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của cây bút nữ Lê Minh Khuê,
tôi thường đọc cho các em đoạn thơ của nhà thơ Tố Hữu để khởi động, dẫn dắt, tạo
tâm thế cho các em bước vào bài mới, hoà nhập vào không khí của tiết học, vào
tuyến lửa Trường Sơn thời chống Mỹ:
Trường Sơn xẻ dọc, dọc ngang
Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng
Trường Sơn vượt núi băng sông
Xe đi trăm ngả chiến công bốn mùa
Trường Sơn đông nắng tây mưa
Ai chưa đến đó như chưa rõ mình
( Nước non ngàn dặm - Tố Hữu)
Sau đó tôi cho các em quan sát màn hình máy chiếu đa năng đoạn tư liệu có
hình ảnh những đoàn xe vận tải đang vượt tuyến lửa vào tiếp viện cho chiến
trường, những cô thanh niên xung phong đang san lấp hố bom hoặc đang đứng chỉ
đường cho các đoàn xe chạy trong tiếng máy bay, tiếng bom gào rú. Tôi quan sát
thấy hầu hết các em đều rất chú ý vào màn khởi động này, đó là một yếu tố rất
thuận lợi để hướng dẫn các em bước vào tìm hiểu tác phẩm, từ đó mà hiệu quả của
Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 5 Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9
tiết dạy tăng lên rất nhiều.
b) Vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với đặc trưng bộ môn:
Đây là những biện pháp vô cùng quan trọng, quyết định sự thành công hay thất
bại của tiết dạy trên lớp.Vì vậy tôi rất chú trọng tới các phương pháp dạy học này.
Trong đó tôi rất chú ý vận dụng phương pháp dạy học tích cực. Trong quá trình
dạy học theo phương pháp tích cực, tôi thấy phương pháp này có rất nhiều ưu
điểm. Trong cách dạy này, người thầy hướng dẫn, tổ chức, trò tìm kiếm kiến thức,
thầy nêu vấn đề, trò thảo luận phát hiện kiến thức, thầy hỏi, trò trả lời có quan
điểm riêng, thầy luôn tìm ra tình huống có vấn đề nêu ra để thảo luận.
Tôi chú ý vận dụng việc chia nhóm học sinh để các em chủ động tích cực tìm
hiểu kiến thức theo yêu cầu của tiết dạy; đặt câu hỏi và tổ chức cho các em thảo
luận.
Khi áp dụng phương pháp này tôi nhận thấy học sinh hứng thú hơn trong tiết
học, các em nhớ nhanh và nhớ lâu hơn các kiến thức, kĩ năng; phương pháp này
cũng giúp các em phát triển khả năng tự lực, tư duy khoa học trong nhận thức.
3. Linh hoạt trong cách thức tổ chức giờ học để đạt được hiệu quả giáo dục bộ
môn cao nhất.
a) Trong các giờ giảng trên lớp, tôi luôn chú ý đến các đối tượng học sinh khác
nhau để có biện pháp truyền thụ kiến thức phù hợp. Tôi thường xuyên kiểm tra
việc ghi chép bài, soạn bài và học bài, làm bài tập ở nhà của học sinh. Từ đó tôi
động viên khuyến khích, khen thưởng kịp thời với những em có ý thức học tập tốt,
luôn cố gắng vươn lên và cũng nhắc nhở, có biện pháp đôn đốc kịp thời những học
sinh còn ham chơi,lười học.
b) Chú ý hướng dẫn các em luyện viết chữ hàng ngày, yêu cầu các em viết bài,
chấm điểm, biểu dương những em viết chữ sạch, đẹp, ngay ngắn, từ đó khích lệ
được các em khác cũng kiên trì rèn luyện để chữ viết ngày càng tiến bộ hơn.
c) Với bộ môn Ngữ văn, học thuộc bài là một yêu cầu rất quan trọng. Vì vậy tôi
cũng rất chú ý đến khâu này. Ngoài việc kiểm tra bài cũ trên lớp, tôi luôn tạo điều
kiện để các em trả bài vào mọi lúc có thể, thậm chí giờ ra chơi hay cuối mỗi buổi
học tôi cũng ngồi tại lớp để tạo điều kiện cho các em trả bài trong giới hạn, nắm
Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 6 Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9
vững được kiến thức của bộ môn. Việc kiểm tra này phải được ghi chép cụ thể để
đảm bảo kiểm tra được 100% học sinh trong mỗi lớp, có như vậy mới tránh được
tư tưởng ỷ lại, cho rằng thầy cô sẽ không kiểm tra mình. Do đó các em rất hào
hứng học bài.
d) Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn luôn chú ý phát hiện những học sinh có
năng khiếu để bồi dưỡng các em trở thành những học sinh giỏi của bộ môn. Sau đó
gặp gỡ, động viên, khích lệ các em vào đội tuyển dự thi môn Ngữ văn, thậm chí tôi
còn gặp gỡ, trao đổi, làm công tác tư tưởng cho phụ huynh để các em được tạo
những điều kiện tốt nhất cho việc ôn luyện. Tôi thường xuyên giao bài tập để các
em thực hiện và chấm rất kĩ, tìm ra những câu văn, những hình ảnh sáng tạo để các
em tự tin hơn trong học tập. Với học sinh đại trà có thể chỉ cần làm đúng, viết
đúng, nhưng với học sinh giỏi, ngoài viết đúng lại còn phải viết hay, có như vậy thì
bài làm của các em mới tạo được ấn tượng cho người đọc. Vì vậy tôi cũng thường
xuyên tìm và cung cấp thêm tài liệu tham khảo để các em học hỏi, rèn luyện thêm.
Khi tập huấn cho các em dự thi, tôi thực hiện biện pháp cùng chấm, nghĩa là cả cô
và trò đều là “giám khảo” công khai. Các em trực tiếp nhận xét bài làm của bạn,
tìm ra các đoạn văn, bài văn viết tốt nhất và xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp.
Ví dụ khi giao cho các em làm đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ “Sang thu”
của Hữu Thỉnh, tôi đã đọc cho các em chấm từng mở bài của các bạn theo phương
pháp so sánh để tìm ra bạn có cách viết hay nhất. Kết quả là các em đều công nhận
hai mở bài sau đây là tạo được ấn tượng nhất:
Mở bài 1:
Đẹp biết mấy mỗi mùa hoa nở rộ trên đất nước ta! Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông
ngự trị và ban tặng cho ta những món quà tinh hoa của trời đất. Đó là do sự kết
tinh của gió, hương, hoa, cỏ, ngập sắc muôn nơi. Nhưng có gì đẹp hơn cái khoảnh
khắc giao mùa chóng vánh kì diệu mà đẹp ngất ngây khi hạ qua, thu tới. Nhà thơ
Hữu Thỉnh đã thật tinh tế biết bao khi chớp nhặt được sợi nắng vấn vương kéo từ
hạ sang thu mong manh, dễ tan biến như khói mây để rồi viết nên tuyệt tác “Sang
thu”. Tác phẩm được viết năm 1977, in trong tập “Từ chiến hào đến thành phố”.
( Mở bài của em Trần Quỳnh Anh, khoá 2009- 2010)
Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 7 Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9
Mở bài 2:
Chẳng biết tự bao giờ, thu đã trở thành bến đợi trong tâm hồn của những người
thi sĩ. Mùa thu gieo vào trong trái tim mỗi con người một nốt nhạc trầm lắng, xao
xuyến mà tinh tế, nhẹ nhàng, thanh thoát. Người ta yêu thu - một tình yêu đơn giản
đến lạ lùng. Phải chăng chất thi vị ngọt ngào ấy đã chắp cánh cho tâm hồn người
nghệ sĩ hoá thành những vần thơ bay bổng, lãng mạn. Tất cả đã dệt nên ba bài thơ
thu của Nguyễn Khuyến, “ Cảm thu - Tiễn thu” của Tản Đà. Và cũng không thể
không nhắc tới “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Nó là tiếng thì thầm của khoảnh khắc
hạ chuyển sang thu.
( Mở bài của em Nguyễn Thị Thu Trang, khoá 2009- 2010)
Như vậy các em sẽ được tham khảo học tập cách viết của các bạn, từ đó hình
thành niềm tự tin rằng mình cũng viết được như vậy để được cô và các bạn biểu
dương. Đồng thời tôi cũng hướng dẫn các em những kĩ năng làm bài, trình bày bài.
Mặt khác, tôi cũng khen và thưởng cho các em để động viên khích lệ các em kịp
thời, khơi dậy ở các em tinh thần thi đua và ý thức tự giác, say mê trong học tập.
e) Với bất cứ môn học nào, thực hành cũng là khâu rất quan trọng. Môn Ngữ văn
cũng vậy, phải thực hành nhiều mới giỏi. Vì vậy tôi thường xuyên yêu cầu học
sinh phải lập dàn ý, mở rộng bài viết theo chiều sâu, có chính kiến riêng của mình
về nghệ thuật, cảm nhận. Tôi cũng hướng dẫn các em ôn luyện theo từng chủ đề.
Ví dụ ở chương trình Ngữ văn lớp 9 có các chủ đề văn học như:
- Hình ảnh người phụ nữ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
- Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại.
- Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du trong Truyện Kiều.
- Nghệ thuật tả người của Nguyễn Du trong Truyện Kiều.
- Hình ảnh người lính qua hai tác phẩm Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu
đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
- Hình ảnh người phụ nữ trong các tác phẩm thơ hiện đại.
- Tình yêu làng của người nông dân Việt Nam qua tác phẩm Làng của Kim Lân.
- Hình ảnh con người mới qua tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long.
- Hình ảnh những cô thanh niên xung phong trong tác phẩm Những ngôi sao xa
Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 8 Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9
xôi của Lê Minh Khuê .
Từ đó tôi yêu cầu học sinh phải nắm được cốt lõi của vấn đề và phải tập viết
những đoạn văn nhỏ để từ đó rèn kĩ năng viết súc tích rồi tiến đến viết hay.
Tôi cũng hết sức cố gắng tạo ra bầu không khí văn chương trong các giờ văn.
Đó là bầu không khí dân chủ, cởi mở, bầu không khí đối thoại. Bước vào giờ giảng
là bước vào bầu không khí được sẻ chia, được trao đổi tâm tư.Ở đó thầy và trò bình
đẳng với nhau trong quá trình khám phá và sáng tạo.
g)Tôi cũng cố gắng kiên nhẫn khuyến khích để lắng nghe được ý kiến từ học sinh.
Theo tôi, một câu hỏi đúng lúc, đúng chỗ, vừa sức, một ánh mắt thiện cảm, một lời
động viên khích lệ, một sự chờ đợi không nôn nóng, một sự tranh thủ thêm nhiều ý
kiến, một giả định, một nhận xét thoả đáng, đó là những gì ngoài văn chương hết
sức cần thiết để nhen lên khát vọng từ học sinh.
Ví dụ khi hướng dẫn các em, nhất là các em học trong đội tuyển thi học sinh
giỏi, tôi đã đọc cho các em nghe đoạn thơ:
Những năm ấy tôi đi giữa lòng Hà Nội
Không hay trong xà lim anh Hoàng Văn Thụ đang nằm
Không biết anh Trần Đăng Ninh bị cùm tay mỗi tối
Không hay trên biên thùy Bác đã dừng chân!
Tôi đến Nha Trang ngắm trời bể đẹp
Có hay đâu hang Pắc Bó gió lùa
Giường lãnh tụ là hai hàng đá ghép
Mảnh áo chàm Bác mặc quá đơn sơ!
Đất nước sắp đổi thay rồi mà tôi chẳng biết!
Người thay đổi đời ta đã về kia ta vẫn không hay!
Tôi vẫn khép phòng văn hì hục viết
Nắng trôi đi oan uổng biết bao ngày!
Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 9 Kinh nghiÖm d¹y phÇn ®äc - hiÓu v¨n b¶n trong ph©n m«n v¨n ë líp 9
Chớ bao giờ quên nỗi chua cay của một thời thơ ấy!
Tổ quốc trong lòng ta mà có cũng như không!
Nhân dân ở quanh mà ta chẳng thấy!
Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng !
Ta làm con nai lạc giữa rừng thu
Làm hổ sa cơ giận vườn bách thảo
Làm bóng ma hời sờ soạng đêm mơ
Làm tất cả, chỉ trừ không đổ máu!
Nở trắng hoa kim anh trên biên giới, Bác về
Xa nước ba mươi năm, một câu Kiều, Người vẫn nhớ
Mái tóc Bác đã phai màu quá nửa
Lòng son ngời như buổi mới ra đi!
( Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi - Chế Lan Viên)
Sau khi đọc xong tôi hỏi ấn tượng chung của từng em về đoạn thơ vừa nghe. Các
em hầu hết đều trả lời rằng đoạn thơ rất ấn tượng, rất hay. Sau đó tôi phát cho các
em văn bản thơ đã được in sẵn để các em cùng tự đọc lại và yêu cầu các em suy
nghĩ tìm tòi để phát hiện ra đặc sắc của đoạn thơ. Cuối cùng tôi đã bình giảng cho
các em nghe cách sử dụng ngôn từ đầy chất triết lí của tác giả và cách dùng dấu
câu rất ấn tượng của Chế Lan Viên. Mục đích của tôi khi cho các em tiếp xúc với
đoạn thơ là tìm cách cho các em cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn từ và dấu câu
trong thơ, để từ đó khích lệ các em đến với tác phẩm văn học nói chung, đến với
các tác phẩm thơ trong chương trình Ngữ văn 9 nói riêng, từ đó tạo tâm thế cho các
em quay vào phần kiến thức ôn luyện. Quả thật sau đó các em đã tìm đến với thơ
Chế Lan Viên, tìm học thuộc nhiều bài thơ của ông. Và dần dần các em cảm thấy
yêu thích các tác phẩm văn chương hơn, đặc biệt là các tác phẩm văn chương có
giá trị. Theo nhà thơ Xuân Diệu thì “ Mỗi áng văn, lời thơ là một cá lội, con bướm
bay, con chim hót. Việc nghiên cứu giảng dạy là phải đưa được vào trái tim người
đọc cái kì diệu của chim hót, bướm bay, cá lội, chứ không phải là làm cho bướm
Ngêi thùc hiÖn: Lª ThÞ Th¬. GV trêng THCS LTK ThÞ trÊn Hµ Trung 10
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_kinh_nghiem_day_phan_doc_hieu_van_ban.doc