A-.ĐẶT VẤN ĐỀ
Trường tiểu học A Phú Lâm là một trường thuộc vùng nông thôn còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí chưa cao nên đa số phụ huynh học sinh của trường còn lơ là, thiếu quan tâm đến việc học tập của con em mình. Từ đó chất lượng học tập của học sinh thường ở mức độ trung bình hoặc khá, để đạt được loại giỏi thật sự là rất hiếm.
Được Ban Giám Hiệu nhà trường phân công bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều nhăm liền, tôi nhận thấy các em chỉ đạt được thành tích cao hơn so với lớp học. Các em chưa thật sự nắm được vấn đề một cách vững chắc, thiếu sáng tạo, linh hoạt trong một số tình huống nhất định, chỉ biết vận dụng theo lối mòn sẵn có, cho nên sẽ khó đạt được thành tích tốt trong học tập.
Từ những vấn đề nêu trên, tôi nghĩ rằng phải đầu tư nhiều hơn cho việc bồi dưỡng cho các em về biện pháp học tập môn Toán, giúp các em có đủ khả năng hiểu được vấn đề một cách chắc chắn, biết phân tích đề bài một cách rõ ràng chính xác, giải quyết vấn đề hợp lí để đi đến việc giải bài toán đạt kết quả như mong muốn.
Để giải quyết những vấn đề nêu trên, tôi xin trình bày một số việc làm của mình trong công tác bồi dưỡng học giỏi môn Toán 5, như sau:
12 trang |
Chia sẻ: ngocnga34 | Lượt xem: 629 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 5, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âu rõ ở đề bài, cho nên việc xác định được chúng là điều cần thiết để đi vào giải bài toán quen thuộc.
-Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
-Tìm tổng số phần bằng nhau.
-Tìm giá trị một phần bằng nhau, (Nếu trường hợp số bé là 1 phần thì bước này chính là tìm số bé)
-Tìm số bé.
-Tìm số lớn.
Ví dụ:
Tìm 2 số tự nhiên có tổng là 132. Biết rằng khi thêm vào bên phải số bé một chữ số 0 thì được số lớn.
Như bài này, đề bài đã cho biết Tổng của chúng là 132, yêu cầu các em biết xác định được tỉ số của chúng. Khi ta thêm vào bên phải của số tự nhiên 1 chữ số 0 thì ta được số mới gấp 10 lần số cũ. Đến đây các đã xác định được tỉ số của chúng để giải bài một dạng quen thuộc.
*.Một dạng bài toán khác.
?
11 304
63
- 11963
4
+ 8 756
- 8 756
: 4
+ 11963
: 63
Tìm một số. Biết rằng lấy số đó nhân với 63 rồi trừ đi 11963, được bao nhiêu nhân với 4 rồi cộng với 8756 thì được 11304.
HD:
Hay:
Cháu gái hỏi Bà: “Bà ơi, năm nay, Bà bao nhiêu tuổi?”. Bà trả lời: “1/6 tuổi của bà trừ đi 6 thì sẽ được 6.” Hỏi Bà bao nhiêu tuổi?
(Bài toán cổ)
: 6
- 6
?
6
+ 6
6
HD:
Hướng dẫn cho các em quy trình giải bài tập này là:
-Lập sơ đồ.
-Tính ngược về số cần tìm.
8-.Động viên học sinh giải bài bằng nhiều cách khác nhau:
Các em giải được bài tập đó là một yêu cầu cần thiết. Nhưng để phát triển thêm tuy duy cho các em, tôi còn động viên các em tìm ra nhiều cách giải khác (nếu có thể được).
Khi các em biết giải thêm những cách khác trên cùng một bài tập, như thế các em sẽ nắm và hiểu được vấn đề một cách chắc chắn hơn và cũng để tạo cho các em có được tính linh hoạt, sáng tạo và biết chọn lọc được cái hay trong giải toán.
Ví dụ 1:
Một cửa hàng có 324 mét vải. Ngày đầu bán được số vải, ngày thứ hai bán được thêm số vải. Hỏi cửa hàng đó còn lại bao nhiêu mét vải?
Các em đã biết tính giá trị phân số của một số, các em có thể tính:
Cách 1: Thường gặp.
Giải
Số mét vải ngày đầu bán được là: 324 = 72 (m)
Số mét vải bán ngày thứ hai là: 324 = 108 (m)
Tổng số vải bán cả 2 ngày là: 72 + 108 = 180 (m)
Số mét vải của cửa hàng còn lại là: 324 - 180 = 144 (m)
Đáp số: 144 mét.
Và các em cũng đã học các phép tính về phân số, vận động các em suy nghĩ, vận dụng các phép tính về phân số tìm cách giải khác, chẳng hạn như:
Cách 2:
Giải
Phân số chỉ số vải bán được cả 2 ngày là: (số vải)
Phân số chỉ số vải còn lại là: (số vải)
Số mét vải cửa hàng còn lại là: 324 = 144 (mét)
Đáp số: 144 mét.
Ví dụ 2:
Sơ kết học kì 1, 180 học sinh khối lớp năm được xếp thành bốn loại: giỏi, khá, trung bình, yếu. So với học sinh cả khối, số học sinh xếp loại giỏi bằng , loại khá bằng , loại trung bình bằng .
a-.Tính số học sinh được xếp loại giỏi.
b-.Tỉ số phần trăm của mỗi loại so với số học sinh cả khối?
(Đề thi HSG, ngày 21-03-2004)
Giải
Số học sinh được xếp loại giỏi là: 180 = 18 (học sinh)
Đến đây thường thì các em đi tìm số học sinh của mỗi loại rồi mới tính tỉ số phần trăm. Chẳng hạn:
Số học sinh được xếp loại khá là: 180 = 72 (học sinh)
Tương tự, tính số học sinh Trung Bình là 81 học sinh, sau đó các em tính số học sinh Yếu: 180 - (18 + 72 + 81) = 9 (học sinh). Từ đó, các em sẽ tính được tỉ số phần trăm bằng cách lấy số học sinh mỗi loại chia cho 180, rồi lấy thương vừa tìm được nhân với 100 và ghi kí hiệu %. Ví dụ như, tỉ số phần trăm của học sinh giỏi 18 : 180 = 0,1 = 10%
(theo cách hướng dẫn của SGK TOÁN 5
18 : 180 = 0,1
0,1 = 10%)
Nhưng với đề bài này, nếu ta gợi ý cho học sinh tính tỉ số phần trăm bằng cách khác, dẫn đến các em biết tính tỉ số phần trăm mỗi loại như sau:
Tỉ số phần trăm của loại giỏi là: (nhân tử, mẫu với 10)
Tỉ số phần trăm của loại khá là: (tương tự)
Tỉ số phần trăm của loại trung bình là: (nhân tử, mẫu với 5)
Tỉ số phần trăm của loại yếu là: 100% - (10% + 40% + 45%) = 5%
Đáp số: a). 18 học sinh
Giỏi 10% ; Khá 40% ; TB 45% ; Yếu 5%
Qua ví dụ 2 này, giáo viên có thể giúp cho học sinh hiểu thêm Tỉ số phần trăm chính là tỉ số của 2 số nhưng chúng được viết dưới dạng tỉ số có mẫu số bằng 100, bằng cách biến đổi như ta đã dạy. (thành phân số thập phân có mẫu số bằng 100)
Qua 2 ví dụ trên cho các em so sánh 2 cách giải và cho biết cách giải nào nhanh và gọn hơn? Các em sẽ thích thú hơn qua nhiều cách giải như thế.
Cách giải khác ở đây không cần phải giải cả bài toán mà trong từng bước để giải bài toán, nếu có thể, tôi cũng thường đặt câu hỏi cho các em, như: “Ta có thể tính bằng cách nào khác nữa không?”.
Ví dụ:
Một miếng vườn hình chữ nhật có nửa chu vi là 22m. Chiều dài hơn chiều rộng là 8 mét. Tính diện tích miếng vườn?
8 m
22 m
Giải
Ta có sơ đồ: Chiều dài:
Chiều rộng:
Hai lần số đo chiều rộng: 22 - 8 = 14 (m)
Số đo chiều rộng: 14 : 2 = 7 (m)
Số đo chiều dài: 7 + 8 = 15 (m)
Ở bước này, tuỳ theo từng bài, ta có thể hỏi thêm: Để tính số đo chiều dài, ta còn cách tính nào khác nữa không? Các em có khả năng tính được, số đo chiều dài sẽ bằng nửa chu vi trừ đi chiều rộng (22 - 7 = 15 (m)), hay các em cũng có thể hiểu: Biết tổng của 2 số, muốn tìm số này thì lấy tổng trừ đi số kia
Diện tích hình chữ nhật; 15 7 = 105 (m2)
Đáp số: 105 m2.
III-.KẾT QUẢ:
Được Ban Giám Hiệu trường phân công bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 5 trong những năm qua, bản thân luôn cố gắng hết sức mình để nghiên cứu, tham khảo và học hỏi ở mọi nơi, mọi lúc. Kết quả đạt được trong những năm qua về học sinh giỏi lớp 5 như sau:
-Năm học 2003 - 2004: Dự thi 3 HS, đạt được 1 em vòng Tỉnh, 2 em vòng Huyện.
-Năm học 2004 - 2005: Dự thi 4 HS, đạt được 1 em vòng Tỉnh, 2 em vòng Huyện.
-Năm học 2005 - 2006: Dự thi 5 HS, đạt được 2 em vòng Tỉnh, 3 em vòng Huyện.
IV-.NGUYÊN NHÂN THÀNH CÔNG:
Kết quả đạt được trên đây chính là do:
-Sự quan tâm của Ban Giám Hiệu, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác bồi dưỡng.
-Học sinh tham gia bồi dưỡng liên tục, thường xuyên nên việc giảng dạy của giáo viên cũng như việc tiếp thu của học sinh được kết nối một cách chặt chẽ.
-Nội dung từng bài dạy không quá sức của học sinh, tạo cho các em sự hứng thú trong học tập.
IIV-.BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Qua một số năm bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung, nói riêng là ở môn Toán, tôi rút ra được một số điều như sau:
-Không đòi hỏi phải dạy cho học sinh những bài quá khó, ngoài khả năng của các em, vì như thế chẳng những không giúp ích gì cho các em mà ngược lại sẽ làm cho các em ngán ngẩm khi học bồi dưỡng. Bài vừa sức, tự các em có khả năng vươn tới để giải quyết được sẽ kích thích sự hứng thú học tập ở các em hơn.
-Không dạy trước chương trình các em đang học.
-Giáo viên phải nghiên cứu thêm nhiều tài liệu, làm phong phú thêm dạng bài tập, giúp học sinh mở rộng thêm sự hiểu biết của mình.
-Biết soạn đề bài ngay khi dạy trên lớp, trong những tình huống cần thiết giúp học sinh khắc sâu một dạng bài tập mà các em chưa nắm bắt một cách chắc chắn.
Ví dụ khi dạy bài tính nhanh, thuộc dạng “Một số nhân với một tổng (hiệu)”. Chẳng hạn khi dạy các em bài tập: 2004 7 + 2004 + 2004 2 (Đề thi HSG lớp 5, ngày 21/ 03/ 2004). Bài tập này yêu cầu học sinh tính nhanh một cách hợp lí. Các em phải hiểu được trong biểu thức gồm có 3 tích: 2004 7; 2004 1 và 2004 2. Như thế các em có thể viết lại là: 2004 ( 7 + 1 + 2) = 2004 10 = 20040. Nhưng trong buổi ban đầu các em khó phát hiện để hiểu được số 2004 là tích của 2004 và 1 (2004 1). Sau khi hướng dẫn cho học sinh thấy được điều đó, giáo viên có thể soạn ngay một đề khác, tương tự, chẳng hạn:
123 + 123 + 123 46 + 123 52 để có thể biến đổi thành 1231 + 1231 + 12346 + 12352 = 123 (1 + 1 + 46 + 52) = 123100 hay 123 2 + 123 46 + 123 52 = 123 (2 + 46 + 52) = 123 100 = 12300.
-Tạo điều kiện cho học sinh tham gia thực tế, có thể bằng giáo cụ trực quan hay tổ chức những tiết thực hành. Vì qua những tiết thực hành này, các em rất hứng thú học tập và qua thực tế việc cân, đong, đo, đếm giúp các em sẽ hiểu tường tận vấn đề hơn.
C-.KẾT LUẬN
T
hực tế, bồi dưỡng học sinh giỏi, không thể có một khuông phép nhất định nào được, vì học sinh mỗi năm mỗi khác, nhất là đối với môn Toán. Ngoài những kiến thức cơ bản có ở trong chương trình thì nó còn bao la như bể trời vô tận. Cho nên để bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán có chất lượng theo yêu cầu nào đó thì trước nhất người giáo viên phải biết học sinh của mình là ai? Như thế nào về kiến thức, về khả năng tiếp thu của các em để có biện pháp phù hợp khi tiếp xúc, truyền thụ kiến thức mới cho các em. Biết được các em như thế nào, mình mới biết được mình phải chuẩn bị về tài liệu ra sao và nâng dần mức độ bài tập như thế nào cho đúng tầm của các em?
Có như thế, tôi nghĩ công tác bồi dưỡng học sinh giỏi sẽ đạt được yêu cầu của nhà trường ở mức độ ít nhất là có thể chấp nhận được.
File đính kèm:
- Boi Duong HSG TOAN 5.doc