Môn tiếng việt có tầm quan trọng đặc biệt nhất là ở bậc tiểu học. Đối với học sinh lớp 2 trong chương trình thay sách mới. Thay đổi cả về nội dung và hình thức dạy môn này so với chương trình cũ. Nó rất thiết thực về nội dung và phương pháp. Phân môn Tập làm văn rèn cả 4 kỹ năng ( Nghe, nói, viết, đọc). Đã cung cấp cho học sinh kiến thức về cách làm bài và làm các bài tập (Nói, viết). Cung cấp lý thuết về ngôn ngữ và văn học. Nó là cơ sở vững chắc nhất để học sinh chủ động sáng tạo trong khi học. Do vậy, làm thế nào để vận dụng chúng vào các bài dạy cụ thể thì hoàn toàn không dễ dàng chút nào. Vì ở lớp 1 các em mới làm quen với âm, vần đến cuối năm các em mới đọc trơn và đọc nhẩm nhưng khi lên lớp 2 từ chỗ biết nói một số câu đơn giản găn với âm vần đã học các em phải đặt câu theo mẫu đã cho hay dựa vào câu hỏi để viết một đoạn văn ngắn. Từ đó đã xác định vai trò môn Tập làm văn 2 là rất cần thiết và cần được quan tâm đối với giáo viên nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Xuất pháp từ thực tế học sinh trong việc dùng câu để viết đoạn văn sao cho hay thì rất là khó khăn đối với các em vì câu văn viết còn sai lỗi ngữ pháp cách diễn đạt chưa trôi chảy, câu văn còn lặp lại nhiều lần. Do vậy mà bản thân tôi muốn nghiên cứu kỹ hơn phân môn này để tạo điều kiện thuận lợi cho việc dạy học về sau đó là lý do mà tôi chọn giải pháp “Rèn kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 2”
10 trang |
Chia sẻ: trangnhung19 | Lượt xem: 766 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Rèn kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh khối lớp 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hỏi: Làm gì? Như thế nào?.
Khi luyện câu cho HS, GV cần sử dụng tranh, mẫu vật theo chủ đề để tạo sự hứng thú, sinh động cho bài học.
Ví dụ: Khi dạy bài Luyện từ và câu ở tuần 25; Bài “ Mở rộng vốn từ – từ ngữ về sông biển”.
GV cho HS quan sát tranh về cảnh biển hoặc sông và hỏi.
Giáo viên Học sinh
+ Trên bức tranh được vẽ những - Bức tranh vẽ người, biển.
hình ảnh nào?
+ Người đang làm gì? - Người đang dạo trên bãi cát.
- Đang khiêng phao đi tắm.
+ Biển như thế nào? - Biển rộng, nước xanh.
+ Sóng như thế nào? - Sóng lăn tăn trắng xoá, xô
vào bờ
Từ đó giúp cho HS đặt câu đúng cú pháp.
Giai đoạn 2: Luyện cho HS cách dùng từ đặt câu văn hay.
Cho HS quan sát tranh, GV gợi ý để HS tìm cách diễn đạt sao cho câu văn hay nhất.
Ví dụ:Dạy bài Tập làm văn ở tuần 25; bài “Quan sát tranh và trả lời câu hỏi”
Giáo viên Học sinh
+ Bức tranh vẽ gì? - Bức tranh vẽ cảnh thuyền và
Biển.
+ Sóng biển như thế nào? - Sóng biển lăn tăn, ầm ầm.
- Xô vào bãi cát
- Xô đẩy nhau chạy vào bờ.
+Trên mặt biển có những gì? - Có thuyền ở ngoài biển. - Thuyền nhấp nhô. - Thuyền lên xuống như cánh diều.
- Thuyền lướt ra khơi.
GV hỏi: Theo em thì câu nào diễn đạt hay? Vì sao?
HS chọn câu mà các em cho là hay để trả lời, GV phân tích. Cứ như vậy HS sẽ ý thức được cách viết câu văn hay và chọn từ ngữ độc đáo phù hợp với hoàn cảnh.
Mặt khác để giúp HS hiểu và vận dụng được các từ có giá trị biểu cảm GV cần lưu ý khai thác các từ quan trọng trong bài văn, bài thơ ở các tiết Tập đọc.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Cô giáo lớp em”
GV cần chú ý khai thác, phân tích các từ có giá trị biểu cảm được coi là “điểm nhãn” của bài là:
Từ “ghé”, với bài giảng rất hay của cô giáo thì cây cỏ, thiên nhiên, nắng, gió như muốn hoà mình vào niềm say mê, hứng thú học tập của các bạn HS
Từ “ấm” trong câu thơ :”Ấm trang vở thơm tho” ý muốn nói lời giảng của cô rất ấm áp, dịu dàng.
2/ Cách viết đoạn văn.
Trong một bài văn dù bất cứ ở thể loại nào, đoạn văn là yếu tố quan trọng để tạo thành bài văn hoàn chỉnh. Ở lớp 2 mục tiêu cần đạt được đối với HS là phải viết được một đoạn văn theo yêu cầu của thể loại. Đây là nền tảng vững chắc để HS học lên các lớp trên.
Vậy, khi dạy Tập làm văn GV không chỉ dừng lại ở việc gợi cho HS tìm ý mà đồng thời còn phải cung cấp cho HS phương pháp viết đoạn văn. Có hai phương pháp viết đoạn văn đơn giản đó là : Phương pháp quy nạp và diễn dịch.
Viết đoạn văn theo cách diễn dịch: Là cách viết câu đầu tiên của đoạn văn mang tính khái quát, các câu sau diễn giải, làm rõ hơn ý của câu đầu. Câu đầu thường được gọi là câu chốt của đoạn văn.
GV hướng dẫn cho HS chú trọng khi viết câu văn đầu, bởi vì nó mang tính định hướng cho đoạn văn.
Ví dụ: Khi cho HS viết đoạn văn về mùa hè. Bài “ Tả ngắn về bốn mùa” Tập làm văn tuần 20.
Câu đầu là câu mang tính chấât khái quát về mùa hè. Các câu còn lại GV hướng dẫn HS làm rõ ý cho câu đầu.
“Mùa hè bắt đầu từ tháng tư, mặt trời chói chang, thời tiết rất nóng. Nhưng nhờ cái nắng mùa hè làm cho trái ngọt, hoa thơm. Được nghỉ hè, chúng em tha hồ đọc truyện, đi chơi , lại còn được bố mẹ cho về quê thăm ông bà. Mùa hè thật là thích.”
Viết đoạn văn theo cách quy nạp: Là cách viết đi từ các ý cụ thể, chi tiết rồi sau đó khái quát lại ở câu cuối.
GV hướng dẫn HS viết đoạn văn theo cách này khá dễ dàng, tức là đi tìm các chi tiết, hình ảnh đặc sắc để làm nổi bật chủ đề( đối tượng).
Ví dụ: Khi dạy bài Tập làm văn “Tả ngắn về biển” Tuần 26.
GV hướng dẫn HS chọn cảnh đặc trưng, tiêu biểu về cảnh biển như: mặt trời, sóng, cánh buồm, chim hải âu, bầu trời, mâySau đó khái quát lại cảnh biển đẹp như thế nào? Đoạn văn có thể viết như sau:
“Cảnh biển buổi sáng thật là đẹp. Mặt trời đỏ rực đang mọc lên từ lòng biển. Những ngọn sóng nhấp nhô trên mặt biển xanh biếc. Những cánh buồm nhiều màu sắc lướt nhẹ trên mặt biển. Những chú hải âu sải rộng cánh bay. Bầu trời trong xanh, những đám mây màu tím nhạt đang bồng bềnh trôi.”
Ngoài hai cách hướng dẫn HS viết đoạn văn theo kiểu quy nạp và diễn dịch, còn có thể hướng dẫn HS viết đoạn văn theo cách sau.
Viết đoạn văn theo trình tự thời gian.
Mọi sự vật đều biến đổi theo không gian và thời gian . Một đối tượng không thể lột tả hết các nét đặc sắc của sự vật đang biến đổi liên tục. Do vậy miêu tả cảnh vật theo trình tự thời gian là cách mà các nhà văn thường dùng. Cách này giúp cho người viết(HS) có thể lột tả được các nét đặc sắc ở từng thời điểm khác nhau một cách dễ dàng.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Tả về bốn mùa” TLV Tuần 19.
GV gợi ý cho HS viết bài bằng cách này.
Mùa hè :
Giáo viên Học sinh
+ Sáng sớm khi mới thức dậy, em - Em thấy sương trắng, tiếng gà thấy những gì? gáy, ông mặt trời lên.
+ Cảnh buổi sáng có gì đẹp? - Sương bồng bềnh và tan dần.
+ Buổi trưa mặt trời như thế nào? - Nắng chói chang.
+ Em có cảm giác ra sao? - Em có cảm giác nóng, chảy mồ hôi.
+ Cây cối như thế nào? - Cây cối khô héo.
+ Mọi người thường làm gì vào lúc đó? - Mọi người thường tìm chỗ mát,
ngồi trước quạt điện, đi tắm.
Viết đoạn văn theo điểm nhìn ( không gian).
Như chúng ta đã biết, thời gian và không gian thường gắn liền mật thiết với nhau. Bất cứ sự vật nào cũng tồn tại trong một không gian và thời gian nhất định. Do vậy GV cần hướng dẫn HS chọn, tìm những chi tiết đặc sắc theo không gian từ xa đến gần, từ trên xuống dưới hoặc ngược lại để miêu tả một đối tượng nào đó.
Ví dụ: Khi dạy bài “tả ngắn về cây cối” TLV Tuần 29. Ta có thể tiến hành như sau:
Giáo viên Học sinh
+ Bầu trời như thế nào? - Bầu trời thêm xanh.
+ Cây cối trong vườn như thế nào? - Cây cối trong vườn tươi tốt.
+ Cành lá như ra sao? - Cành lá sum suê, lá rụng
nhiều.
+ Ngoài đồng có những cây gì? - Ngoài đồng lúa đang trổ Và nó như thế nào? bông
è Từ đó GV hướng dẫn cho HS viết thành đoạn văn và các em sẽ viết được đoạn văn hay.
3. Để giúp HS học tốt môn Tập làm văn, bên cạnh công việc thiết yếu là cung cấp cho HS kiến thức và kĩ năng viết đoạn văn hay thì một công việc không kém phần quan trọng đó là giúp HS phát hiện và sửa lỗi trong bài văn, đoạn văn của mình.
Do vậy tôi đã luôn chú trọng việc chấm và chữa bài. Nhờ chấm bài thường xuyên tôi đã phát hiện lỗi mà các em hay mắc phải. Trước khi tiến hành việc sửa lỗi, tôi đã liệt kê xem em nào mắc lỗi nào để khi sửa bài tôi gọi HS đó lại để em nhớ và làm tốt bài sau. Sau khi đã sửa lỗi tôi yêu cầu HS về nhà viết lại đoạn văn hoàn chỉnh để hôm sau kiểm tra lại.
Do phân phối chương trình không có tiết trả bài nên để làm tốt việc sửa bài, tôi đã tiến hành vào các buổi phụ đạo, tiết ôn tập Tiếng Việt
(1tiết / tuần) nhằm sửa sai và giúp các em ngày càng tiến bộ hơn. Sau những tiết chấm và sửa bài, tôi đọc cho các em nghe một số bài văn hay mà tôi tham khảo được hoặc đọc lại bài làm của HS đạt kết quả cao nhất. Nhằm giúp các em rút kinh nghiệm, định hướng cho việc làm bài ở tiết sau và biết cách sử dụng từ ngữ, viết câu, đoạn trong bài văn của mình.
* Kết quả: Qua một thời gian áp dụng các biện pháp trên, HS lớp tôi đã có nhiều tiến bộ, cụ thể như sau:
TSHS
GIỎI
KHÁ
TRUNG BÌNH
YẾU
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
31
7
22,6
13
41,9
10
32,2
1
3,3
Trong đó tỉ lệ HS sai về các lỗi chỉ còn lại như sau:
Bố cục
Dùng từ
Câu
Chính tả
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
3
9,4
5
15,6
2
6,2
8
25,0
Trong thời gian còn lại tôi sẽ tiếp tục áp dụng các giải pháp trên một cách hiệu quả nhất cho tập thể lớp và nhất là với 1 em còn yếu sẽ đạt kết quả cao hơn.
IV/ KẾT LUẬN :
Với các giải pháp đã được đề ra, GV cần phải tuỳ vào tình hình chung của lớp, từng đối tượng HS mà áp dụng, vì trong một lớp học có cả HS
giỏi – khá - trung bình và yếu. Và với mỗi đối tượng HS GV có thể tăng hoặc giảm hình thưc này hoặc hình thức khác. Và muốn đạt kết quả tốt trong công tác giảng dạy, người GV cần phải có tâm huyết với nghề, hết lòng vì học trò, giảng dạy với tất cả khả năng và nhiệt tình của mình.
Với kinh nghiệm giảng dạy có được tôi đã mạnh dạn thể hiện trong giải pháp này, tuy nhiên vì thời gian áp dụng trên HS chưa dài và phạm vi chưa rộng nên không tránh khỏi những thiếu sót mang tính khách quan và chủ quan. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các bạn đồng nghiệp, của các cấp Quản lí Giáo dục để giải pháp này thêm hoàn thiện và trở nên thực sự “Hữu ích”.
Và cũng qua đây tôi xin tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu, các đồng chí - đồng nghiệp trường Tiểu học Lương Thế Vinh đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn thành giải pháp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Đạ RSal, ngày 25 tháng 12 năm 2003.
Người viết
LÊ THỊ KHƯƠNG
File đính kèm:
- khuong - TLV 2.doc