Nam Phi trong hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu

Trước năm 1994, dưới chế độ Apacthai, chính sách đối ngoại của Nam Phi đã dẫn đến việc Nam Phi bị cô lập trong khu vực và hạn chế mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với thế giới bên ngoài. Dưới chính quyền của cựu Tổng thống Nelson Mandela, Nam Phi đã tiến hành tái liên kết khu vực và hội nhập kinh tế thế giới kể từ năm 1994, gia nhập WTO, đàm phán ký kết hiệp định thương mại với Liên minh châu Âu (EU), đóng vai trò quan trọng trong Cộng đồng Phát triển Miền Nam châu Phi (SADC). Nhờ chính sách đối ngoại đúng đắn đó, Nam Phi đang có vị thế tốt trong việc thực hiện các chương trình của NEPAD, đóng vai trò quan trọng trong Liên minh châu Phi (AU) và những hoạt động liên kết khu vực khác.

 

 

 

doc7 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1141 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nam Phi trong hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nam – Nam của Nam Phi chủ yếu là nhằm mục đích hợp tác, cộng tác. Chiến lược của Nam Phi trong các mối quan hệ Bắc – Nam đang đem lại những hiệu quả hữu ích cho việc phát triển kinh tế của Nam Phi. Vai trò của Nam Phi trong nền kinh tế thế giới ngày càng được khẳng định khi Nam Phi cùng ba nước Trung Quốc, Ấn Độ, Braxin trở thành những cực quan trọng của các nền kinh tế mới nổi và dự báo trong giai đoạn 2030-2035 bốn nền kinh tế này sẽ trở thành cực quan trọng trong thế giới đa cực. Một số tập đoàn lớn của Nam Phi, nhờ hội nhập, hiện nay đang trở thành những người chơi chủ yếu trên sân chơi toàn cầu như Sab Miller, Sasol, Sappi…Trong các diễn đàn quốc tế đa phương như WB, IMF, Liên hiệp quốc, WTO…, Nam Phi cùng một số nước như Trung Quốc, Braxin, Nga, Ấn Độ, Mêhicô đang có tiếng nói quan trọng để bảo vệ quyền lợi của các nước đang phát triển. 3. Những trở ngại của Nam Phi trong hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu Trong quá trình hội nhập khu vực và toàn cầu, Nam Phi đang gặp phải những thách thức và trở ngại cơ bản sau: + Chính sách hội nhập của Nam Phi còn nhiều bất cập: Trong việc thực hiện các cam kết của WTO về tự do hoá ngành dịch vụ, tiến trình thực hiện cam kết của Nam Phi vẫn còn chậm trễ. Mặc dù trong vòng đàm phán Đôha, Nam Phi cùng một số nước đã cố gắng cải thiện cách tiếp cận thị trường các nước phát triển, kêu gọi các nước dỡ bỏ hàng rào bảo hộ sản phẩm nông nghiệp, nhưng những cam kết về mở cửa ngành dịch vụ trong nước của Nam Phi vẫn chưa thực hiện hiệu quả. Những cam kết của Nam Phi trong WTO bị đánh giá là ở mức độ tương đối thấp. Chính phủ Nam Phi vẫn chưa thực hiện nguyên tắc cải thiện tính minh bạch trong thu mua chính phủ, mặc dù Đạo luật chống tham nhũng đã được đề ra vào năm 2004. Theo đánh giá của WB, tốc độ tự do hoá thương mại của Nam Phi không nhanh hơn so với các nước có thu nhập trung bình thấp khác trên thế giới(5). Các ngành nhạy cảm như dệt may, sản phẩm ô tô vẫn thực hiện trì trệ và chưa theo kịp như cam kết. Trong khu vực miền Nam châu Phi, quá trình thực hiện NEPAD của Nam Phi còn đang gặp nhiều khó khăn do yếu tố trong nước. Những cam kết để thực hiện SADC và SACU còn gặp rất nhiều vấn đề bởi vì hầu hết các nước Nam Phi đều sản xuất ra một phạm vi sản phẩm xuất khẩu thu hẹp và hầu hết các sản phẩm này là hướng về thị trường các nước phát triển. Vì vậy tính cạnh tranh của các nước trong khu vực Nam Phi là rất lớn. Là một nước lớn trong khu vực, Nam Phi rất khó khăn trong việc ưu tiên chiến lược hội nhập khu vực. SADC, SACU và COMESA là những tổ chức liên kết khu vực mà Nam Phi có cơ hội tham gia. Tuy nhiên cho đến nay, Nam Phi mới tham gia SADC, SACU và chưa có ý định tham gia COMESA. Ngay trong SACU, những đàm phán về giảm thuế quan và ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương và những quy định về mức thuế, mẫu mã hàng hoá giữa các nước vẫn rất khác nhau, đòi hỏi tất cả các nước thành viên phải nỗ lực và đồng thuận hơn nữa. + Những khó khăn trong nước đang tạo lực cản cho Nam Phi trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu. Khó khăn trước hết là nhân tố nhân lực trong quá trình hội nhập. Để hội nhập thành công vào nền kinh tế thế giới, Nam Phi cần một đội ngũ lao động có trình độ và kỹ năng, am hiểu kiến thức hội nhập cũng như kỹ năng đàm phán trong các diễn đàn song phương và đa phương. Tuy nhiên, nguồn vốn nhân lực ở Nam Phi chưa được chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập. Nam Phi lại là nước đang có Chỉ số phát triển con người (HDI) không mang tính cạnh tranh. Năm 1975, HDI của Nam Phi là 0,655, năm 1995 tăng lên là 0,742, giai đoạn 1995-2003 giảm xuống là 0,685, chỉ cao hơn một chút so với năm 1975(6). Năm 1975 Nam Phi đứng hàng thứ 45 trong tổng số 102 nước về chỉ số HDI, nhưng năm 2003 tụt xuống hàng thứ 120 trong tổng số 177 nước. HDI của Nam Phi có sự giảm sút nghiêm trọng như vậy là do trong hơn thập kỷ qua, đất nước này đã phải đối mặt nghiêm trọng với dịch bệnh HIV/AIDS, làm cho tuổi thọ người dân Nam Phi tụt xuống hàng thứ 30 trên thế giới tính từ dưới lên trên. Khó khăn thứ hai là vấn nạn nghèo khổ và thất nghiệp đang cản trở Nam Phi hội nhập nhanh hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Theo báo cáo của chính phủ Nam Phi, tỷ lệ thất nghiệp năm 2005 là 26,5%, trong đó 31,5% là tỷ lệ thất nghiệp của người da đen và 5,1% là của người da trắng. Hiện tỷ lệ thất nghiệp cao này đang được cải thiện dần nhờ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, nhưng so với các nước châu Phi khác, tỷ lệ thất nghiệp này là quá lớn. Nó làm cản trở đến mọi hoạt động kinh tế của Nam Phi, trong đó có những hoạt động kinh tế đối ngoại bởi thất nghiệp liên quan nhiều đến kỹ năng thấp của người lao động. Khó khăn thứ ba là cơ sở hạ tầng cho hội nhập của Nam Phi còn gặp nhiều trở ngại. Mặc dù là nước có cơ sở hạ tầng hiện đại bậc nhất châu Phi, nhưng Nam Phi vẫn thiếu những cơ sở hạ tầng cần thiết cho hội nhập như sân bay, cầu cảng… Do những khó khăn và trở ngại trên, nên tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Nam Phi dường như chưa mang tính bền vững. Năm 1948 (năm đánh dấu Nam Phi giành được độc lập), thị phần xuất khẩu của Nam Phi trên thị trường thế giới là 2%, nhập khẩu là 2,49%, thì đến năm 1995 (một năm sau khi Nam Phi thoát khỏi chế độ Apacthai), xuất khẩu của Nam Phi chỉ còn chiếm 0,54%, và nhập khẩu chiếm 0,58% thị phần thế giới, năm 2000 tiếp tục giảm còn 0,47% và 0,44%. Trong những năm 2003-2004, thị phần của Nam Phi là 0,5% và 0,58% tương ứng(7). 4. Triển vọng hội nhập Theo đánh giá của giới quan chức chính phủ Nam Phi, xu hướng toàn cầu hoá đang đem lại những tác động tích cực cho nền kinh tế Nam Phi. Kết luận của giáo sư Elsabe Loots(8) thì 90% tăng trưởng kinh tế của Nam Phi trong giai đoạn 1990-2001 là có sự đóng góp trực tiếp của các lực lượng toàn cầu hoá, cụ thể là từ thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vì vậy, trong chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn II kể từ 2004, chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được chính phủ Nam Phi coi trọng hơn nữa. Những ưu tiên chiến lược hội nhập của Nam Phi trong thời kỳ 2007-2010 là: + Củng cố và thúc đẩy Chương trình nghị sự châu Phi; + Tăng cường hợp tác Nam – Nam; + Tăng cường hợp tác Bắc – Nam; + Đẩy mạnh sự tham gia vào hệ thống kỹ trị toàn cầu; + Tăng cường các mối quan hệ kinh tế và chính trị; + Tăng cường thể chế cho hội nhập; + Tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập bằng các dịch vụ hỗ trợ. Một loạt các biện pháp ưu tiên đã được đặt ra để thực hiện chiến lược này, trong đó có cả những biện pháp vĩ mô (những nấc hội nhập trong AU, SADC, SACU, NAM, G77, IBSA, MERCOSUR; tăng cường hợp tác với EU, Mỹ, Nhật Bản thông qua TDCA, AGOA, TICAD, G8; tăng cường hợp tác trong WTO; ký kết AFTA với Trung Quốc và Ấn Độ…) đến các biện pháp vi mô (như đào tạo nguồn nhân lực, phát triển cơ sở hạ tầng…). Những biện pháp này được đề cập chi tiết trong Chiến lược ngoại giao và hội nhập quốc tế của Nam Phi đến năm 2010. Chính phủ Nam Phi cũng đã đề ra Sáng kiến tăng trưởng nhanh và chia sẻ cho Nam Phi (Accelerated and Shared Growth Initiative for South Africa – AsgiSA) thực hiện trong giai đoạn 2004-2014. Sáng kiến này nhằm tăng cường đầu tư cho lĩnh vực công cộng, giảm chi phí kinh doanh, mở rộng cộng việc trong lĩnh vực công cộng và tín dụng vi mô, nâng cao khả năng của chính phủ trong việc đáp ứng các dịch vụ kinh tế, củng cố sự kiên kết xã hội. AsgiSA nhằm mục đích mở rộng các bước phát triển tiếp theo của nền kinh tế Nam Phi lên tầm cao hơn, tiếp tục thúc đẩy sự phát triển từ những tiền đề tích cực như ngoại thương, đầu tư nước ngoài, đầu tư tư nhân để phát triển kinh tế tốt hơn. Nhìn chung, với những nỗ lực khắc phục khó khăn trở ngại và thực hiện chiến lược hội nhập mới từ phía chính phủ Nam Phi kể từ sau năm 2004 và xét trong triển vọng hình thành FTA SADC vào năm 2008, Nam Phi đang có những điều kiện thuận lợi để bước sang giai đoạn hội nhập mới vào nền kinh tế khu vực và thế giới: hội nhập nhanh và bền vững hơn. Chú thích: Theo RDP White Paper, tháng 9 năm 1994, trang 10, 31-32. Nguồn: South Africa’s Foreign Policy 1994-2004 Apartheid Past, Renaissance Future, Johannesburg, 2004, trang 254. Nguồn: South Africa’s International Trade Diplomacy: Implications for Regional Integration, trang 69. World Bank 2002, Africa Region Working Paper Series No.27, Free Trade Agreements and the SADC Economies. Theo Lawrence Edwards, Has South Africa Liberalized its trade? South African Juornal of Enonomics, Vol 73, 12/2005. United Nations Developmet Programme, Human Development Report 2005. WTO 2006. Giáo sư Elsabe Loots là Viện trưởng Viện nghiên cứu Xã hội Kinh tế Nam Phi. Tài liệu tham khảo John S. Wilson and Victor O. Abiola, Standards and Global Trade: A Voice for Africa, World Bank 2003 Free Trade Agreements and the SADC Economies, Africa Region Working Paper Series No.27, 2/2002 Reform and Opportunity: The Changing Role and Patterns of Trade in South Africa and SADC, Working Paper Series No. 14, 3/2001 Maine/South Africa Trade Oppotunities, A Special Report for the Maine International Trade Center, 511 Congress Street, www.mitc.com/ Rudolt Gouws, South Africa and the Chanllenge of Globalisation, Conference on Globalisation and Economic Success: Policy Options for Africa, Cairo, 13-14/11/2006. Peter Draper, Pilip Alves, South Africa’s International Trade Diplomacy: Implications for Regional Integration, Friedrich Ebert Stiftung (TIPS), 2006. Alan Hirsch, Season of Hope: Economic Reform under Mandela and Mbeki, University of KwaZulu – Natal Press, 2005. Fairy Godmother, South Africa’s Foreign Policy: Principles and Problems, Published in Monograph No13, 5/1997. Jeffrey D.Lewis, Free Trade Agreements and the SADC Economies, Africa Region Working Paper Series No.27, 2/2002. The Bank of New York ADR Workshop, South Africa: Foreign Direct Inverstment, 30/7/2005. Elizabeth Sidiropoulos, Apartheid past, renassance Future: South Africa’s Foreign Policy 1994-2004, The South African Institute of International Affairs, Johannesburg, 2004. www.dti.gov.za; www.moi.gov.za; www.worldbank.org

File đính kèm:

  • docNam Phi trong hoi nhap kinh te khu vuc va toan cau.doc
Giáo án liên quan