Kỷ yếu Kiểm tra đánh giá để phát huy tính tích cực của học sinh bậc trung học

MỤC LỤC

1. Mục lục 2

PHẦN THỨNHẤT:

NHỮNG VẤN ĐỀCHUNG CỦA KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ ỞBẬC TRUNG HỌC

2. Kiểm tra đánh giá đểphục vụhọc tập: xu hướng mới của thếgiới

và bài học cho Việt Nam 6

TS. VũThịPhương Anh

3. Hoạt động đánh giá trong dạy học 17

ThS. Phan SĩAnh

4. Đánh giá trong học tập chủ động ởTHCS 20

ThS. Lê Anh Cường

5. Vài suy nghĩvềthi trắc nghiệm 28

TS. Ngô ThịMinh

6. Kiểm tra đánh giá kết quảhọc tập theo hướng phát huy tính tích

cực của học sinh trung học phổthông 31

TS. Nguyễn Phú Tuấn

7. Đánh giá kết quảhọc tập ởphổthông: Tiến bộvà Bất cập 35

ThS. Hoàng Tuyết

PHẦN THỨHAI:

NHỮNG VẤN ĐỀCỤTHỂLIÊN QUAN ĐẾN KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ

ỞBẬC TRUNG HỌC

8. Trắc nghiệm khách quan - Một hình thức đánh giá sớm được áp dụng 47

TS. Nguyễn ThịKim Anh

9. Giới thiệu hệthống TQB hỗtrợxây dựng, quản lý, sửdụng ngân

hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan 55

ThS. Nguyễn Mạnh Cường – NCV. Nguyễn Thanh Phong

10. Thửnghiệm cải tiến việc kiểm tra môn Sinh học 66

ThS. La Hồng Huy

11. Thực trạng đánh giá học sinh trường phổthông trung học ởtỉnh

An Giang 71

Trần ThịHuyền

12. Kiểm tra đánh giá ngoại ngữphổthông: Đâu là đích? 76

TS. Trần ThịLan

13. Độphức tạp của bài toán và vấn đềkiểm tra đánh giá đểphát huy

tính tích cực học tập môn Toán của học sinh ởtrường PTTH 84

PGS. TS. Nguyễn Văn Lộc

14. Kết quảnghiên cứu thực nghiệm tác động trong kiểm tra đánh

giá môn tiếng Anh lớp 6 cải cách tại Tp.HCM 87

Hội thảo “Kiểm tra đánh giá đểphát huy tính tích cực của học sinh ởbậc trung học”

3 (138)

NCV. Hồ Đắc Hải Miên

15. Thực trạng kiểm tra đánh giá kết quảhọc tập môn tiếng Anh lớp

6 cải cách tại TP.HCM 98

TS. ĐỗHạnh Nga

16. Thử đềxuất tiêu chí đánh giá, kiểm tra giúp học sinh THPT chủ

động trong học tập 106

TS. Nguyễn ThịNgọc

17. “Bệnh thành tích” - một vấn đềnhức nhối trong giáo dục THPT

tỉnh An Giang 111

Nguyễn ThịHoàng Phượng

18. Ghi nhật ký - một hình thức đánh giá mới mẻ 116

NCV. Phan Hoàng Yến

pdf138 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kỷ yếu Kiểm tra đánh giá để phát huy tính tích cực của học sinh bậc trung học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường trung học phổ thông. Về bản chất, hoạt động dạy học trong các phương pháp này diễn ra theo kiểu giải thích – minh họa, hay thông báo – thu nhận, tác dụng phát triển tính tích cực, chủ động của học sinh không cao. Hoạt Hội thảo “Kiểm tra đánh giá để phát huy tính tích cực của học sinh ở bậc trung học” 135 (138) động nhận thức của học sinh diễn ra ở mức thông hiểu, ghi nhớ, tái hiện. Để khắc phục nhược điểm thụ động trong học tập, giáo viên dựa vào vốn tri thức, kỹ năng và khả năng học tập của học sinh, đề ra các bài tập hay nhiệm vụ phù hợp, có nâng cao hơn so với khả năng hiện có của học sinh, đòi hỏi các em phải có một sự cố gắng trong học tập, nỗ lực về trí tuệ để hoàn thành. Nhờ vậy, tư duy được phát triển, tính tích cực học tập được đề cao. Một cách cụ thể, , sử dụng các PPDH phổ biến theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh, đòi hỏi giáo viên bên cạnh nhiệm vụ truyền thụ tri thức cho học sinh, phải chú trọng nêu các câu hỏi nhận thức để thu hút sự chú ý và kích thích tư duy của học sinh, giao cho học sinh các bài tập nhỏ, vừa sức, giải quyết nhanh trong thời gian ngắn ở trong lớp, tạo điều kiện cho các em làm việc với phương tiện trực quan để hiểu nhanh hơn, hiểu sâu thêm kiến thức bài giảng. 2. Tích cực sử dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề Dạy học giải quyết vấn đề là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra trước học sinh một vấn đề về nhận thức, chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề sau đó giáo viên phối hợp cùng học sinh giải quyết vấn đề đi đến nội dung cần học tập. Dạy học giải quyết vấn đề không phải chỉ sử dụng đối với tiết bài mới trong lớp, mà còn được sử dụng để củng cố, ôn tập bài nhà của học sinh. Dạy học giải quyết vấn đề có thể thực hiện xen kẽ hay kết hợp với các phương pháp dạy học khác. Ngòai ra, dạy học giải quyết vấn đề cũng chỉ có thể sử dụng trong một số nội dung của bài, không nhất thiết phải sử dụng toàn bài. 3. Tăng cường vận dụng các phương pháp dạy học tiên tiến đề cao đề cao chủ thể nhận thức của học sinh Các phương pháp dạy học đề cao chủ thể nhận thức của học sinh được xác định dựa vào cách thức họat động nhận thức của học sinh. Trong học tập, bằng các họat động thảo luận, tranh lụân, hay điều tra đóng vai… các em có được những tri thưc kĩ năng cần thiết. Trong mỗi phương pháp, có thể sử dụng nhiều họat động khác nhau, nhưng có một họat động được xem là chủ đạo, bao trùm. Tên của phương pháp dạy học được đặt theo tên họat động đó. Phù hợp với thực tế dạy học ở trường phổ thông hiện nay, có thể sử dụng rộng rãi một số phương pháp dạy học tiên tiến như: nghiên cứu, thảo luận, tranh luận, đóng vai, viết báo cáo. 4. Sử dụng phương tiện dạy học theo hướng đề cao vai trò chủ thể nhận thức của học sinh Các phương tiện dạy học chứa trong bản than nó dưới dạng vật chất cả hình ảnh bên ngòai lẫn những dấu hiệu, thuộc tính bên trong của các đối tượng học tập, nhờ Hội thảo “Kiểm tra đánh giá để phát huy tính tích cực của học sinh ở bậc trung học” 136 (138) các thao tác tư duy của học sinh, các đặc điểm đó dần lộ ra bên ngòai. Như vậy phương tiện dạy học thực sự là nguồn trí thức, đòi hỏi một sự khám phá, tìm tòi của người học. Từ đó dẫn đến việc sử dụng các phương tiện trực quan trong dạy học cũng phải theo hướng mới: đó là xem chúng như công cụ của giáo viên tổ chức chỉ đạo họat động nhận thức của học sinh, đồng thời xem chúng là nguồn tri thức để học sinh tìm tòi, khám phá rút ra những nội dung cần thiết cho nhận thức của mình. Trong những năm gần đây, các phương tiện hiện đại về nghe nhìn, thông tin vi tính đã nhanh chóng xâm nhập vào nhà trường và trở thành phương tiện dạy học có hiệu quả cao. Một mặt, chúng góp phần làm mở rộng các nguồn tri thức cho học sinh, giúp cho việc lĩnh hội các tri thức của các em nhanh chóng hơn với một khối lượng tri thức đa diện và to lớn: mặt khác chúng góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên trong học phổ thông hiện nay. Một học sinh có khả năng nhanh chóng thu nhận kiến thức từ các nguồn khác nhau, thì việc thuyết giảng của giáo viên theo kiểu thông báo – thu nhận trở nên không cần thiết, phương pháp dạy học phải chuyển đến cho việc tổ chức cho học sinh khai thác tri thức từ các nguồn khác nhau, chọn lọc hệ thống hóa và sử dụng chúng. Như vậy, phương tiện dạy học hiện đại tạo điều kiện rộng rãi cho việc dạy học theo hướng tích cực hóa họat động nhận thức của học sinh. Các thiết bị kĩ thuât hiện đại được sử dụng phổ biến trong dạy học hiện nay gồm có: video, máy chiếu Overhead, vi tính… 5. Phối hợp cáchình thức tổ chức dạy học một cách linh họat Trong dạy học ở trường turng học phổ thông có nhiều hình thức tổ chức khác nhau, như: dạy học cá nhân, dạy học theo nhóm, dạy học theo lớp, dạy ngòai trời, tham quan, khảo sát địa phương ngoại khóa, mỗi hình thức tổ chức dạy học có chức năng và ý nghĩa khác nhau đối với việc thực hiện các nhiệm vụ dạy học đòi hỏi phải phối hợp chúng 1 cách linh họat. 6. Kết hợp nhiều lọai hình kiểm tra, đánh giá trong dạy học Một bài kiểm tra cần đạt các yêu cầu sau: + Nội dung kiểm tra là những kiến thức và kỹ năng cơ bản, trọng tâm của bài, chương, có ý nghĩa thiết thực đối với học sinh; + Chú trọng cả kiến thức, kĩ năng thái độ. Trong kiến thức có cả câu hỏi sự kiện, kiểm tra trí nhớ và câu hỏi suy luận; + Độ khó của bài phù hợp với chuẩn đánh giá của môn học, nội dung bài làm phù hợp với thời lượng quy định; + Có sự phân hóa học sinh, tạo cơ hội bộc lộ sự sáng tạo của các em. Tùy mục đích, đối tượng và điều kiện, có các hình thức kiểm tra, đánh giá khác nhau: quan sát, câu hỏi kiểm tra (kiểm tra nói, kiểm tra viết), bài tập, học sinh tự Hội thảo “Kiểm tra đánh giá để phát huy tính tích cực của học sinh ở bậc trung học” 137 (138) đánh giá, thực hành, trắc nghiệm khách quan. Cần có sự kết hợp một cách linh họat các lọai hình kiểm tra với nhau. IV. KẾT LUẬN Đổi mới PPDH hướng vào việc giáo dục vì sự phát triển bền vững cần phải được xác định như một trách nhiệm cụ thể của tòan giáo viên, học sinh, cán bộ quản lý và cán bộ phục vụ giáo dục ở nhà trường, chứ không riêng của giáo viên đứng lóp, mặc cho người trực tiếp tác chiến từng bài học, tiết học, lớp học với học sinh của mình. Đổi mới PPDH với mục tiêu gần gũi là chuyể học sinh từ học thụ động sang học chủ động, tích cực là một quá trình đòi hỏi sự nổ lực, kiên trì và cả sự dũng cảm của mỗi cán bộ giáo viên. Không vì chạy theo thành tích mà làm vội, làm ẩu, nhân danh đổi mới để làm những việc không đáng làm. Việc đổi mới vừa có thể diễn ra đồng lọat, vừa có thể bắt đầu từ những trọng điểm từ những yếu tố cốt lõi, tiền đề; có thể diễn ra trong toàn thể giáo viên, nhưng cũng có thể bắt đầu từ một số giáo viên có năng lực và kinh nghiệm dạy học; sau đó mở rộng dần. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2100 ( Ban hành kèm theo quyết định số 201/2001/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính Phủ). 2. Nguyễn Đức Vũ, Phạm Thị Sen, Đổi mới phương pháp dạy học địa lý ở trung học phổ thông, Nxb Giáo Dục, 2004. 3. Rederal Ministry of Education and Research. Report of the Federal Government on education of a sustainable development, 1/2002 (Nguồn: Kỷ yếu hội thảo khoa học “Giáo dục vì sự phát triển bền vững trong thời đại toàn cầu hóa” – Đại học Sư phạm Hà Nội – 12/2005) Hội thảo “Kiểm tra đánh giá để phát huy tính tích cực của học sinh ở bậc trung học” 138 (138) MÓN QUÀ CỦA NGƯỜI THẦY Thúy Nga Báo Tuổi Trẻ, thứ bảy, ngày 01/10/2005 “Buổi học đầu tiên của năm học mới. Cậu con trai trở về hào hứng hơn lúc ra đi. Kéo mẹ ra một góc, cậu nói nhỏ, như một bí mật: “Cô giáo dạy văn của con năm nay hay lắm!”Vẫn bí mật, cậu kể vừavàolớp cô giáo đã nói ngay: “Cô không muốn làm một giáo viên dạy văn…, cô chỉ muốn làm một người bạn để chỉ lại cách học văn cho các bạn thôi”. Cậu bé đang tuổi ăn, lớn nên sôi nổi. Cậu như thấy mình lớn hẳn lên sau lời “kết bạn” hào hiệp của người thầy. “Cô giáo hỏi lớp con nhiều câu hỏi. Cô hỏi cả lớp biết vì sao phần lớn học sinh đều cảm thấy chán môn văn không. Đó là do các bạn dựa dẫm quá nhiều vào giáo viên, các bạn làm theo khuôn mẫu, hễ giáo viên đi đâu là các bạn lại không tự mình mở một lối đi khác, sao các bạn không thử tìm hiểu khám phá, sao lại không tự tin vào bản thân mà cứ phải đi theo giáo viên như sợ bị lạc đường?” Hàng loạt câu hỏi tại sao của cô giáo, cậu học trò không trả lời được. Có lẽ cậu bé cũng chưa hề nghĩ tại sao phải đặt ra những câu hỏi tại sao ấy. Bao nhiêu năm học trước cậu chẳng thấy gì bất thường khi lẩm nhẩm học thuộc từng xấp văn mẫu, đề cương chi tiết các thầy cô cho photo trước mỗi kỳ thi. Bao nhiêu năm học trước cậu vô tư kể chuyện nhặt được của rơi, vô tư tả mẹ, tả thầy cô… giống hệt như bao bạn học của mình. Và cũng như mọi bạn bè, cậu học trò nhỏ chỉ được trao cho một đáp án, dạy cho một cách nghĩ, một cách cảm thụ trong một môn học cần rất nhiều cảm xúc và suy nghĩ riêng tư. Ngày ấy, không ai nói với những đứa trẻ chuyện cuộc đời, vì điểm 10 sau này khi các em ra đời cũng chỉ là một con số, nó không giúp các em sống tốt hơn, làm việc tốt hơn đâu”. “Cô bảo cô không cho nhiều bài tập về nhà, để không làm môn văn trở thành một gánh nặng khiến học sinh phải đối phó và giả dối…” “Cô bảo, bắt chước chúng tôi các em chỉ bắt chước được những cái lỗi thời.Còn các em đang sống ở thời đại của mình, các em có cả tương lai phía trước để cảm nhận và suy nghĩ…” Câu chuyện về cô giáo mới và môn “văn” mới cứ vậy kéo dài mỗi ngày trong cuộc trò chuyện của hai mẹ con. Tự tin lắm, yêu nghề lắm, mà cũng phải yêu văn chương nhiều lắm thì một người thầy mới nói được với học trò mình những lời thênh thang đến vậy! “May thay, học kỳ này chúng con có tới sáu tiết học văn mỗi tuần. Ngày mai lại có môn văn ạ” – cậu bé nói về môn học, cái môn cậu từng ngán ngẩm và rẻ rúng, như nói về một món quà.

File đính kèm:

  • pdfKIEM TRA DANH GIA DE PHAT HUY TINH TICH CUC CUA HOCSINH.pdf