Khủng hoảng Kinh tế Thế giới và bài học cho Việt Nam

Khủng hoảng tài chính mới đây ở Mỹ là một điều ít ai ngờ, cả về mức độ nghiêm trọng, lẫn quy mô ảnh hưởng của nó lên hệ thống tài chính và kinh tế toàn cầu.

Bài này nhằm vào việc tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng. Đồng thời, cho phép chúng ta rút ra những bài học quý báu về chính sách tài chính làn mạnh, nhằm tận dụng được các cơ hội phát triển, hội nhập kinh tế trong tương lai. Vì tính phức tạp của vấn đề, bài viết này chỉ mong đóng góp thêm phần nào vào nhận thức chung về các vấn đề cần quan tâm.

 

 

doc6 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1451 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khủng hoảng Kinh tế Thế giới và bài học cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lại một nguyên nhân cơ bản của cuộc khủng hoảng này qua lăng kính của trường phái kinh tế học thể chế vừa tóm tắt ở trên. Nhưng để có cái nhìn bao quát, hãy điểm lại một vài sự kiện đáng chú ý vào thời kỳ cận khủng hoảng. TS. Lê Hồng Nhật Khủng hoảng Kinh tế Thế giới và bài học cho Việt Nam (Phần 2) TS. Lê Hồng Nhật - Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) Thứ hai, 28/12/2009 23:16:17 Các giai đoạn trước khủng hoảng tài chính của Mỹ . Chúng ta hãy chia thời gian cận khủng hoảng ra làm hai giai đoạn. Giai đoạn 1: Dưới thời của cựu tổng thống Bill Clinton (1992 – 2000). Đây được coi là thời kỳ hoàng kim của Mỹ, với tiến bộ công nghệ và hiệu quả kinh tế cao, thặng dư ngân sách, và tỷ lệ nợ nước ngoài thấp. Nhưng ngay vào cuối thời kỳ này đã xuất hiện hai sự kiện đáng chú ý: (i) Vỡ bong bóng chứng khoán (dotcom bubble). Điều này làm ảnh hưởng đến sự giầu có của tầng lớp trung lưu của Mỹ, tức là làm giảm khả năng thế chấp cho các khoản vay để đầu tư của họ vào nhà cửa, bất động sản, và các hoạt động kinh doanh khác. (ii) Tự do hóa tài  chính (unregulated finance). Cụ thể là dưới áp lực của các nhóm đặc quyền tài chính, vào năm 1999, Bill Clinton  đã ký  đạo luật mới (Gramm-leach-Bliey), khai tử  đạo luật Glass-Steagal (1933). Điều này cho phép các ngân hàng thương mại tham gia vào các hoạt động đầu tư rất rủi ro (chủ yếu là trong lĩnh vực bất động sản), làm khởi đầu bong bóng nhà đất ngay từ năm 2000.  Giai đoạn 2: Thời kỳ của cựu tổng thống George Bush (2001 – 2008), với điểm nổi bật là mất cân đối vĩ mô ngày càng trầm trọng: (i) Mỹ chịu gánh nặng của hai cuộc chiến tranh tại Iraq và Afganistan, sau sự kiện 11 tháng 9. Điều này trực tiếp làm tăng thâm hụt ngân sách. (ii) Thâm hụt cán cân thương mại và nợ nước ngoài của Mỹ (nhất là với Trung Quốc) đã tăng trong suốt 3 thập kỷ, nhưng nhanh nhất là đến cuối năm 2008. Nợ ròng đầu tư nước ngoài của Mỹ (America’s net international investment position) vào 2008 là 3,47 ngàn tỷ dollars, tăng 1,33 ngàn tỷ, hay 62% so với cuối năm 2007. Đó là mức tăng cao nhất kể từ năm 1976. Nếu xét tổng số nợ của Mỹ so với GDP, thì bức tranh cho thấy một sự bấp bênh về tài chính rõ hơn nhiều. Trong thập kỷ 80, dưới thời Regan, tổng số nợ của Mỹ so với % của GDP (US total debt as % of GDP)  bị đẩy từ 150% lên đến xấp xỉ 240%.  Con số này tăng lên rất ít trong suốt 2 nhiệm kỳ của Clinton, tới gần 250%. Nhưng nó lại bị đẩy lên dưới thời của Bush, đạt tới 350%  vào năm 2008, vượt xa đỉnh cao trong lịch sử là 300%, khi xẩy ra cuộc đại khủng hoảng 1929-30. Như đã nói, khi mất cân đối vĩ mô trở nên nghiêm trọng, thì bong bóng đầu cơ dễ dàng làm khủng hoảng nổ ra. Hãy nhìn lại những diễn biến chính đưa đến khủng hoảng: •  Sau cuộc vỡ bong bóng chứng khoán (dotcom bubble) vào năm 2000, Fed hạ thấp lãi suất cơ bản nhằm mục tiêu kép: (i) Kích thích đầu tư và tiêu dùng trong nước (ii) Làm giảm giá trị của đồng dollar so với các đồng ngoại tệ mạnh khác, nhằm kích thích xuất khẩu, cho phép giảm thâm hụt ngoại thương và kiềm chế nợ nước ngoài. Về dài hạn, sự kích thích đầu tư, đẩy mạnh tiến bộ công nghệ và tăng năng suất lao động sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh quốc tế và sức mạnh của đồng dollar Mỹ. Điều đó dẫn đến kỳ vọng về một sự thịnh vượng dài hạn của đất nước và người dân Mỹ.  •  “Hiệu ứng phụ” của việc giảm lãi suất cơ bản của Fed là giảm lãi suất vay, và do đó, làm tăng tổng số cho vay đầu tư vào bất động sản (mortgages). Điều này được thúc đẩy bởi niềm tin của người dân vào sự giàu có ngày càng tăng của Mỹ; vào dân số tiếp tục tăng; và giới hạn của đất đai; nên giá bất động sản sẽ chỉ có tăng! Nói khác đi, bong bóng bất động sản bắt đầu hình thành.  •  Bong bóng nhà  đất  đã kích thích các ngân hàng thương mại (commercial banks) tham gia vào các hoạt động đầu cơ rủi ro cao (chủ yếu trên lĩnh vực bất động sản). Điều này trước đây là bị cấm, do rủi ro trong đầu cơ bất động sản được coi là vượt quá khả năng đảm bảo an toàn của các ngân hàng thương mại. (Xem lại hiệu ứng adverse selection, moral hazard, mà Stiglitz – Weiss đã chỉ ra). Tuy nhiên, bây giờ họ lại được phép làm, nhờ đạo luật mới, Gramm-leach-Bliey. •  Tuy nhiên, để đối phó với rủi ro cao, các ngân hàng thương mại, như Freddie Mac và Fannie Mae, đã chứng khoán hóa những khoản cho vay đầu tư bất động sản.  •  Điều này trên thực tế có nghĩa là: những cá nhân hay tổ chức cho vay đầu tư bất động sản (originators)  bán các khoản cho vay của họ (mortgages) cho các ngân hàng thương mại (như Freddie,  Fannie). Các ngân hàng này “bó” các khoản vay nợ đó lại, ứng với từng mức rủi ro, rồi lại phân nhỏ ra để làm tăng tính thanh khoản, rồi bán ra như một thứ chứng khoán cho công chúng, thông qua các ngân hàng đầu tư (securitization).  •  Khi công chúng hay những nhà đầu tư phổ thông mua các khoản cho vay nợ được chứng khoán hóa này, họ thường mua luôn bảo hiểm (mortgage backedsecurities), chống lại rủi ro là khoản vay nợ được chứng khoán hóa đó có thể là nợ không trả được  (default). •  Vì vậy, quá trình này cho phép những cá nhân, tổ chức cho vay đầu tư vào bất động sản (originators) trút được gánh nặng rủi ro sang cho tổ chức khác gánh chịu, và thu về khoản tiền bán ra những tài sản cho vay được chứng khoán hóa đó. Họ giầu lên nhanh chóng, nên được các công ty xếp hạng (rating companies) đánh giá cao (AAA). Do vậy, các nhà đầu tư phổ thông trên thị trường vốn càng hưng phấn, và giá bất động sản càng bị bốc lên cao. •  Cho tới hết nhiệm kỳ đầu tiên của cựu tổng thống Bush (2004), bong bóng bất động sản không làm mấy ai lo ngại, do nền kinh tế, về cơ bản là vẫn vững vàng: tốc độ tăng năng suất và tiền lương thực tế vẫn tiếp tục được giữ ở mức cao; cân đối vĩ mô vẫn nằm trong tầm kiểm soát.  •  Với một số lượng rất lớn các dự án đầu tư vào bất động sản, các tổ chức bảo hiểm, như AIG, về  trung bình mà nói, có thể xác định được chính xác một tỷ lệ  % khá nhỏ, rằng đầu cơ có thể bị thất bại (default). Tức là, họ xác định được suất sinh lợi của mỗi  đồng vốn cho vay (profit net of default), cũng như phí bảo hiểm (risk   8premium) cho rủi ro bị nợ xấu. Nhờ đó, họ có thể định giá chính xác các khoản cho vay nợ được chứng khoán hoá theo mức rủi ro của nó. Vì vậy, các tổ chức này hoạt động rất có lãi nhờ bong bóng nhà đất, trong điều kiện cân bằng vĩ mô được duy trì.  •  Vào sau quý I, 2005, thâm hụt ngân sách, thâm hụt ngoại thương, và nợ nước ngoài của Mỹ thể hiện ra ngày càng trầm trọng. Tuy nhiên, tốc độ tăng năng suất -động lực của tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế - vẫn còn đang ở mức khá sung sức. Fed thay  đổi chính sách của mình và  đẩy lãi suất cơ bản lên 0,25 % mỗi lần  điều chỉnh. Mục đích là nhằm thu hẹp cầu cơ; hạn chế bong bóng nhà đất; và lái vốn đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, có hiệu quả dài hạn cao hơn.  •  Nếu (i) vốn đầu tư được chuyển mạnh vào lĩnh vực công nghệ cao, cho phép tăng năng suất và sức cạnh tranh của nền kinh tế Mỹ và (ii) gánh nặng hai cuộc chiến tranh không tăng vọt,  thì cân đối vĩ mô sẽ đươc cải thiện. Trên thực tế, bong bóng nhà đất không hề giảm và nợ nước ngoài ngày càng tăng. Một trong các lý do là các ngân hàng kiếm lãi nhanh hơn nhờ bong bóng nhà đất; và không quan tâm đáng kể tới đầu tư vào công nghệ cao, đòi hỏi thời gian đầu tư lâu để sinh lãi. Thêm vào đó, chiến tranh ngày càng trở nên tốn kém. Hệ quả là mất cân đối vĩ mô trở nên nghiêm trọng, buộc Fed phải mạnh tay hơn. •  Fed liên tiếp đẩy lãi suất cơ bản lên 0,25% mỗi lần điều chỉnh cho tới hết năm 2006, và duy trì nó ở mức cao tới cuối 2008. •  Hệ quả là, lãi suất cho vay  để  đầu cơ vào bất  động sản (mortgage interest rates)  tăng lên gấp bội và không ngừng bị đẩy lên. Số đông tầng lớp trung lưu, đang vay nợ để đầu tư vào nhà đất, lúc này không còn chịu đựng nổi gánh nặng lãi suất. Bong bóng nhà đất vỡ. •  Vào cuối 2008, hàng loạt người vay nợ buộc phải trả lại nhà cửa, bất động sản mua bằng tiền vay không có thế chấp cho ngân hàng để trừ nợ. Giá bất động sản sụt giảm nhanh chóng. Tài sản cho vay được chứng khoán hoá bị bán ra ào ạt, khiến cho giá của chúng sụt giảm mạnh trên thị trường chứng khoán. Điều mà các ngân hàng, như Freddie và Fannie, và tổ chức bảo hiểm, như AIG, không kỳ vọng xẩy ra, thì nay đã trở thành thực tế: cùng một lúc, hàng loạt con nợ bị vỡ nợ, với quy mô lớn, khiến cho vốn của các ngân hàng bị bốc hơi nhanh chóng (xem hình 2, phụ lục). •  Sự hoảng loạn từ thị trường nhà đất, lan sang thị trường chứng khoán, rồi lan sang hệ thống ngân hàng (bank panics). Khủng hoảng tài chính bắt đầu diễn ra. Cácsự kiện chính như sau:   -  Mùng 1 Tháng 7, 2008, Bank of America mua lại Countrywide Financials (một trong những tổ chức bán  mortgage backed securities lớn nhất).  -  Ngày 08, tháng 9, 2008,  Freddie Mac and Fannie Mae bị quốc hữu hoá (với tổng tài sản hơn 5 ngàn tỷ dollars). -  Ngày 15, tháng 9, 2008, Lehman đệ đơn phá sản (lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ: Tài sản 600 tỷ dollars). - Ngày 16, tháng 9, 2008, Fed buộc phải cứu AIG với 85 tỷ dollars cứu trợ (Tài sản của nó hơn 1 ngàn tỷ dollars). Lý do: Các tổ chức này mất khả năng thanh toán. Sự vỡ nợ của một loạt tổ chức trong lĩnh vực tài chính, địa ốc làm một số lượng lớn nhân viên làm việc thuộc lĩnh vực này bị sa thải. Sự sụt giảm mạnh giá địa ốc, chứng khoán, làm tài sản của giới trung lưu, trụ cột của sức tiêu thụ của nền kinh tế Mỹ, bị giảm mạnh, dẫn đến sự co thắt về tổng cầu tiêu dùng hàng hóa cao cấp và lâu bền như xe hơi, cũng như các dịch vụ giải trí. Điều này tiếp đến làm các công ty xe hơi lớn như GM và một số lớn các nhà thầu phụ của chúng bị phá sản. Nhiều trung tâm giải trí lớn như Las vegas bị vắng teo. Việc rất nhiều các công ty tài chính và phi tài chính bị phá sản làm tăng số lượng đội quân thất nghiệp, kéo theo sự co hẹp tổng cầu về tiêu dùng và đầu tư, diễn ra theo đường xoáy ốc đi xuống. Do Mỹ là trung tâm tài chính, thị trường tiêu thụ, và là con nợ lớn nhất thế giới, khủng hoảng tài chính và kinh tế của Mỹ đã lan nhanh ra các nền kinh tế khác, dẫn đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu.  TS. Lê Hồng Nhật

File đính kèm:

  • docKhung hoang Kinh te The gioi va bai hoc cho Viet Nam.doc
Giáo án liên quan