Môn Giáo dục công dân (GDCD) giữ vai trò quan trọng và trực tiếp trong việc giáo dục học sinh ý thức và hình thành phát triển nhân cách con người toàn diện. Tuy nhiên thực trạng hiện nay đa số học sinh ngại học môn GDCD vì coi đây là môn phụ, không phục vụ cho việc thi tốt nghiệp và Đại học, Cao đẳng. Từ quan niệm đó nên các em chỉ học một cách đối phó, qua loa, xem nhẹ bộ môn đang diễn ra phổ biến và trở thành thực trạng chung.
11 trang |
Chia sẻ: thiennga98 | Lượt xem: 708 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Giáo dục công dân - Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Để làm được điều đó, ngoài các phương pháp như : Đàm thoại, vấn đáp, nêu vấn đề.thì phương pháp thảo luận nhóm là một phương pháp tối ưu nhất. Tuy nhiên, không phải bất kì bài nào cũng có thể sử dụng phương pháp thảo luận nhóm và chỉ rập khuôn theo một cách, bởi lẽ đã có những giáo viên khi sử dụng phương pháp này đã vô tình biến lớp học của mình thành “một giờ giải lao hợp pháp”. Chọn phương pháp cho một tiết học là không khó nhưng làm sao để sử dụng phương pháp đó một cách có hiệu quả thì là cả một vấn đề cần bàn luận, nghiên cứu.Trong quá trình giảng dạy, tôi đã tích lũy được một số kinh nghiệm trong việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm khi giảng dạy một số bài trong chương trình GDCD. Tôi xin mạnh dạn trình bày ở đây với hi vọng cung cấp cho các bạn đồng nghiệp một số kinh nghiệm nhỏ trong quá trình giảng dạy.
III. MỘT SỐ KINH NGHIỆM KHI SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM
1. Các bước thực hiện.
- Giáo viên nêu chủ đề thảo luận, chia nhóm, giao câu hỏi, yêu cầu thảo luận cho mỗi nhóm, quy định thời gian thảo luận và phân công vị trí ngồi thảo luận cho các nhóm.
- Các nhóm tiến hành thảo luận.
- Đại diện từng nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Các nhóm khác lắng nghe, chất vấn, trao đổi, bổ sung ý kiến.
- Giáo viên tổng kết các ý kiến và đưa nội dung cần đạt được.
2. Yêu cầu cần đạt được:
- Có nhiều cách chia nhóm: chia nhóm có thể dựa vào tính chất câu hỏi, dựa vào số lượng học sinh, cách bố trí lớp học, theo bàn, theo tổ ....
- Quy mô nhóm có thể lớn hoặc nhỏ, tùy theo vấn đề thảo luận. Tuy nhiên, nhóm từ 6-8 học sinh là tốt nhất bởi như vậy vừa đủ nhỏ để đảm bảo tất cả học sinh có thể tham gia ý kiến. Số học sinh như vậy vừa đủ lớn để đảm bảo rằng học sinh không thiếu ý tưởng và không có gì để nói.
- Nội dung thảo luận của các nhóm có thể giống hoặc khác nhau.
- Giáo viên cần quy định rõ thời gian thảo luận và trình bày kết quả thảo luận cho các nhóm.
- Mỗi nhóm cần chọn một trưởng nhóm, một thư ký ghi nội dung trả lời. Trưởng nhóm phân công nhiệm vụ cho từng thành viên, điều hành việc thảo luận, mời các thành viên phát biểu, chuyển sang câu hỏi khác khi thích hợp, đảm bảo rằng mỗi người đều có cơ hội để đóng góp ý kiến. Học sinh luân phiên nhau đại diện cho nhóm trình bày kết quả thảo luận.
- Kết quả thảo luận có thể được trình bày dưới nhiều hình thức: Bằng lời, viết lên phiếu học tập bằng giấy hoặc bản trong...do một người thay mặt nhóm trình bày
- Trong quá trình học sinh thảo luận theo nhóm, giáo viên phải đi kiểm tra tinh thần làm việc, lắng nghe ý kiến của học sinh, gợi ý cho các em nếu cần thiết. Khi các nhóm trình bày xong, giáo viên tóm tắt, tổng hợp, liên kết nội dung của từng nhóm để nêu bật lên được nội dung của bài học.
Để phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế, những điểm khó của PPTLN ở môn GDCD, GV nên chú ý những vấn đề sau:
1. Lựa chọn chủ đề thảo luận:
Chủ đề thảo luận phải là những nội dung cơ bản, trọng tâm, đồng thời là những tình huống có vấn đề, hấp dẫn, buộc HS phải động não. Ví dụ: “Hãy TL để chỉ ra yếu tố siêu hình trong truyện ngụ ngôn “Thầy bói xem voi”? Cần phải nhìn sự vật như thế nào để không siêu hình như năm thầy bói trong truyện này?” (GDCD 10); “Hãy TL để giải thích
vì sao cả thế giới chọn vàng làm vật ngang giá chung nhất mà lại không chọn các kim loại khác?” (GDCD lớp 11). Vấn đề cần TL ở môn GDCD thường tập trung vào hai khía cạnh: 1. Những khái niệm hạt nhân; 2. Những tình huống có vấn đề trong thực tiễn.
Để đảm bảo chất lượng của quá trình TL cũng như chất lượng của giờ lên lớp, GV nên hướng dẫn HS đọc trước bài học và những vấn đề cần lưu ý. Điều đó giúp HS chủ động hơn trong TL.
2. Chia nhóm và chọn nhóm trưởng:
GV nên áp dụng linh hoạt các hình thức chia nhóm:
+ Chia nhóm ngẫu nhiên: HS đếm 1,2,3,4,5... rồi vòng trở lại. HS đếm số nào thì vào nhóm ấy. GV cũng có thể chia theo bàn, theo tổ. Hình thức chia nhóm này được áp dụng khi nhiệm vụ TL của các nhóm giống nhau hoặc nếu nhiệm vụ khác nhau thì cũng ít có sự chênh lệch về độ khó. Đây là hình thức chia nhóm phổ biến nhất.
+ Chia nhóm cùng trình độ: GV dựa vào trình độ HS để chia thành nhóm giỏi, khá, trung bình, yếu. GV nêu yêu cầu TL khác nhau tuỳ thuộc vào trình độ của nhóm.
+ Chia nhóm gồm đủ các trình độ: Cách chia này thường được sử dụng khi nội dung TL cần có sự hỗ trợ lẫn nhau.
+ Chia nhóm theo sở trường: cách chia này thường được tiến hành trong các buổi học tập ngoại khoá, mỗi nhóm sẽ gồm các HS có cùng chung sở thích, hứng thú.
Ngoài ra, có thể chia nhóm theo kiểu nhóm nhỏ thông thường, nhóm rì rầm, nhóm kim tự tháp, nhóm đồng tâm...
3. Giao nhiệm vụ cho nhóm:
GV nêu nhiệm vụ rõ ràng, ngắn gọn, xác định thời gian, hướng dẫn cách thức TL. Thông thường, thời gian TL trung bình là 5 phút.
4. Làm việc theo nhóm:
Sau khi chia nhóm, mỗi nhóm sẽ bốc thăm để chọn nhóm trưởng, thư ký hoặc tự bầu ra nhóm trưởng. GV có thể chỉ định nhóm trưởng, thư ký luân phiên để khắc phục tình trạng có HS chuyên trách nhiệm vụ này. Trong khi HS TL, GV đi tới các nhóm, quan sát, gợi ý, giúp đỡ HS TL nếu thấy cần thiết và nhắc nhở HS không nói chuyện, chơi, làm việc riêng. Sau khi TL, đại diện các nhóm lên trình bày. HS quan sát, bổ sung.
5. Tổng kết:
GV với vai trò trọng tài chốt lại những nội dung cơ bản, khen thưởng những nhóm TL tốt, động viên, khuyến khích để tạo hứng thú cho HS.
Lưu ý: Không có một phương pháp vạn năng cho mọi nội dung dạy học. Bởi vậy, GV không nên lạm dụng PPTLN mà cần phối hợp linh hoạt với các PP khác để giờ học sinh động hơn.
6. Ví dụ về một hoạt động TLN trong bài “Khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng”(GDCD 10)
* TLN để so sánh phủ định biện chứng và phủ định siêu hình
Bước 1. GV giao nhiệm vụ cho HS từ tiết học tuần trước: Về nhà đọc trước bài “Khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng”, chú ý hai vấn đề: 1. So sánh khái niệm phủ định biện chứng và phủ định siêu hình; 2. Khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng (đi lên, đi xuống, theo đường tròn, hình sin hay đường xoáy ốc).
Bước 2. Chia nhóm: GV chia lớp thành 2 nhóm lớn theo hai dãy bàn. Mỗi bàn lại thành 1 nhóm nhỏ. GV cử nhóm trưởng của 2 nhóm lớn.
Bước 3. Giao nhiệm vụ, xác định thời gian, hướng dẫn cách thức TL:GV dùng máy chiếu để trình chiếu hai hình ảnh: Hình ảnh 1 là quả trứng bị đập vỡ, cho vào chảo rán; hình ảnh 2 là quả trứng được gà mẹ ấp nở thành con gà con. Các nhóm quan sát cả 2 hình ảnh, sau đó nhóm 1 quan sát kỹ hình ảnh 1 và trả lời các câu hỏi: Nguyên nhân dẫn tới quả trứng bị phủ định là gì? Kết quả của sự phủ định này là gì? Thế nào là phủ định siêu hình? Nhóm 2 quan sát kỹ hình ảnh 2 và trả lời câu hỏi: Nguyên nhân dẫn tới quả trứng bị phủ định là gì? Kết quả của sự phủ định này là gì? Thế nào là phủ định biện chứng? Thời gian TL 7 phút.
Bước 4. Tiến hành TL.Các nhóm nhỏ TL theo từng bàn. Thư ký của nhóm lớn ghi ý kiến TL của các nhóm nhỏ. Nhóm trưởng và thư ký nhóm lớn tổng hợp, chọn lọc ý kiến. GV đi tới các dãy bàn, quan sát, trợ giúp. Nhóm trưởng lên trình bày trước lớp. GV bật lại máy chiếu hình ảnh cần TL của nhóm. Cả lớp theo dõi, quan sát, các thành viên trong từng nhóm bổ sung ý kiến cho nhóm mình. Nhóm khác bổ sung ý kiến.
GV nêu tiếp vấn đề để cả lớp TL: Phân biệt sự giống và khác nhau giữa phủ định biện chứng và phủ định siêu hình?
Bước 5. Tổng kết.GV chốt lại:
- Phủ định siêu hình là sự phủ định diễn ra do sự can thiệp, sự tác động từ bên ngoài, cản trở hoặc xoá bỏ sự tồn tại, phát triển tự nhiên của sự vật.
- Phủ định biện chứng là sự phủ định diễn ra do sự phát triển của bản thân sự vật, hiện tượng, có kế thừa những yếu tố tích cực của sự vật và hiện tượng cũ.
- Giống nhau: Đều là phủ định (làm mất đi cái cũ).
- Khác nhau:
Phủ định siêu hình
Phủ định biện chứng
Nguyên nhân phủ định ở bên ngoài sự vật
Nguyên nhân phủ định nằm trong bản thân sự vật
Không kế thừa hoặc kế thừa nguyên xi cái cũ
Kế thừa có cải biến những yếu tố tích cực của cái cũ
GV nhận xét tinh thần, thái độ, đánh giá kết quả TL của các nhóm. biểu dương những HS và nhóm TL tích cực, hiệu quả.
KẾT LUẬN
Trong dạy học truyền thống chúng ta thường nặng về phương pháp thuyết trình. Hiện nay tuy không nên phủ nhận phương pháp thuyết trình, cũng không thể thay thế hoàn toàn thuyết trình trong dạy học GDCD, song để phát huy vai trò tích cực của học sinh, chúng ta cần phải tăng cường các phương pháp dạy học tích cực trong đó có phương pháp thảo luận nhóm. Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp chia lớp học thành từng nhóm nhỏ, được giao cùng nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau. Trong nhóm nhỏ các thành viên đều phải làm việc tích cực và giúp đỡ lẫn nhau cùng giải quyết vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Phương pháp thảo luận nhóm giúp học sinh chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của bản thân và cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách trình bày những điều suy nghĩ, mỗi học sinh có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần phải học hỏi thêm gì của bạn. Như vậy, bài học trở thành quá trình học sinh học hỏi lẫn nhau chứ không phải quá trình tiếp nhận tri thức một cách thụ động từ giáo viên. Phương pháp hoạt động nhóm không chỉ phát huy tính tích cực học tập của học sinh mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên để cùng học tập và lao động trong tương lai.
Tuy nhiên, khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, yêu cầu giáo viên - học sinh phải có sự chuẩn bị chu đáo. Đồng thời là cách thức tổ chức khoa học, thì tính hiệu quả mới cao, mới gây được sự hứng thú học tập của học sinh.
Xuất phát từ thực tiễn, trong khuôn khổ của SKKN tôi xin mạnh dạn nêu ra một vài kinh nghiệm của bản thân đã thực hiện khi giảng dạy môn GDCD. Do hạn chế về thời gian, năng lực bản thân và điều kiện thực hiện nên bản SKKN khó tránh khỏi những hạn chế, rất mong được sự đóng góp ý kiến xây dựng của các bạn đồng nghiệp để bản SKKN được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của BGH
Hưng Hà, ngày 15 tháng 5 năm 2012
Người viết sáng kiến
Nguyễn Thế Hệ
File đính kèm:
- sang kien kinh nghiem su dung pp thao luan nhom.doc