Vui chơi là một hoạt động không thể thiếu được của con người ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là ở lứa tuổi tiểu học. Bởi lẽ, nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi này. Vui chơi không những giúp cho các em được rèn luyện thể lực, rèn luyện các giác quan mà nó còn tạo cơ hội cho các em được giao lưu với nhau, được hợp tác với bạn bè, đồng đội trong nhóm, trong tổ .thông qua đó, các em sẽ dần được hoàn thiện những kĩ năng giao tiếp. Đó là kĩ năng được đặt ra hàng đầu trong mục tiêu của môn Tiếng Việt bậc Tiểu học nói chung và của môn Tiếng Việt ở lớp 5 nói riêng
21 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 7329 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng và thiết kế trò chơi học tập tiếng việt lớp 5 đạt hiệu quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chơi đó. Đồ dùng dạy học cần phải đảm bảo được tính thẩm mỹ và khoa học.
Sau đây là một số trò chơi mà tôi đã thực hiện :
a. Trò chơi dẫn dắt học sinh tiếp cận tri thức :
Trò chơi” Thi viết vế đối’’
Trò chơi được vận dụng vào phân môn Tập làm văn, bài: “Dùng từ đồng âm để chơi chữ”, Tiếng Việt 5, tập 1, trang 61.
- Mục tiêu: Giúp học sinh :
Nhận biết cách sử dụng từ đồng âm để chơi chữ.
Khơi gợi sự tập trung chú ý của học sinh khi học kiến thức mới.
- Chuẩn bị:
Các mảnh vải hoặc giấy ghi một vế câu đối như sau :
Đầu
Bàn
Đầu
Ghế
Chẳng
Đầu
Hàng
Bán
Chè
Bán
Xô i
Không
Bán
nước
Hệ thống câu hỏi khai thác 2 từ đồng âm “bán nước’’; “đầu hàng’’ để học sinh nhận biết cách sử dụng từ đồng âm để chơi chữ.
- Tiến hành:
Giáo viên treo một vế câu đối “bán chè bán xôi không bán nước’’lên bảng và nêu yêu cầu.
Chia nhóm học sinh thảo luận viết vế đối phù hợp.
Nhóm nào viết xong câu đối nhanh và đúng theo yêu cầu là nhóm thắng cuộc.
- Lưu ý:
Từng từ trong vế đối phải đảm bảo đúng từ loại với từ trong vế ra.
Ví dụ: “bán’’ là động từ thì từ đối với nó cũng phải là một động từ; “chè” là danh từ thì từ đối cũng phải là danh từ.
Từng từ trong vế đối phải có nghĩa hoặc trái ngược, hoặc bổ sung cho từ trong vế ra.
Ví dụ: “bán” thì đối với nó phải là “mua”….
Học sinh có thể tạo vế đối khác, miễn là đảm bảo đối được ý mà dùng được từ đồng âm. Giáo viên dùng ngữ liệu đó để khai thác bài.
Giáo viên cần quy định thời gian chơi để đảm bảo thời gian thực hành các bài tập trong SGK.
Số mảnh vải hoặc giấy tùy thuộc vào số nhóm mà giáo viên chia.
b. Các trò chơi rèn kĩ năng thực hành và củng cố kiến thức :
Trò chơi” Chọn ô số”
Trò chơi được vận dụng vào phân môn Tập làm văn, bài: “Luyện tập tả người, Tiếng Việt 5, tập 1, trang 132.
- Mục tiêu: Giúp học sinh :
Phát triển vốn từ ngữ miêu tả người, đặc biệt là các từ miêu tả về ngoại hình.
Phát triển kĩ năng trình bày.
- Chuẩn bị:
Một bộ ảnh chụp nhiều người ở các độ tuổi, giới tính, nơi chốn khác nhau có đánh số từ 1 đến n (n là số ảnh chuẩn bị được).
Bảng phụ có kẻ sẵn ô số như sau :
1
2
3
4
5
6
7
8
9
- Tiến hành:
Giáo viên gọi một học sinh lên bảng tham gia trò chơi (khuyến khích học sinh xung phong).
Học sinh được gọi lên chọn một số bất kì trên bảng phụ. Sau đó giáo viên (hoặc cử một học sinh khác) dán bức ảnh có số tương ứng lên bảng, người chơi có nhiệm vụ miêu tả về người trong ảnh (từ 2-3 câu).
Giáo viên gọi tiếp một số học sinh khác tham gia trò chơi (số lượng phụ thuộc vào thời gian dành cho trò chơi.)
Khi trò chơi kết thúc, giáo viên và cả lớp bình chọn người chơi miêu tả hay nhất. Học sinh nào có số phiếu bình chọn nhiều nhất sẽ là người thắng cuộc.
- Lưu ý:
Trò chơi này còn có thể vận dụng vào phân môn luyện từ và câu bài: “Nối các vế câu ghép bằng quan hệ từ” .Giáo viên chỉ cần thay thế các ảnh chụp bằng những phiếu yêu cầu như: Em hãy đặt câu có sử dụng cặp từ quan hệ nguyên nhân-kết quả; Điều kiện – kết quả ; Tương phản…….
Giáo viên có thể thay đổi hình thức chơi bằng cách chia số học sinh trong lớp thành 3 dãy thi đua với nhau.
Trò chơi “Đếm số cánh hoa”
Trò chơi được vận dụng để củng cố lại kiến thức của bài chính tả ở sách Tiếng Việt 5, tập 1, trang 87.
Bài tập 3: thi tìm nhanh :
Các từ láy âm đầu l.
Các từ láy vần có âm cuối ng .
- Mục tiêu: Giúp học sinh :
Ôn lại cách viết những từ ngữ có tiếng chứa âm đầu l và âm cuối ng.
Nhằm để khắc phục lỗi chính tả n/l, n/ng.
- Chuẩn bị:
Nhiều miếng bìa cắt theo hình cánh hoa (hình 1a)
Vẽ trực tiếp lên một tờ giấy to 2 vòng tròn làm hai nhị hoa. Trong mỗi nhị hoa ghi: các từ láy âm đầu l ; các từ láy vần có âm cuối ng.(hình 1b)
Các từ láy vần có âm cuối ng
Các từ láy âm đầu l
Hình 1a: Cánh hoa Hình 1b: Nhị hoa
- Tiến hành:
Giáo viên chia học sinh thành nhiều nhóm chơi tùy theo số bộ nhị hoa và cánh hoa chuẩn bị được.
Khi trò chơi bắt đầu, các nhóm chơi có nhiệm vụ ghi từ theo yêu cầu vào các cánh hoa (mỗi cánh hoa chỉ ghi một từ) rồi dán vào nhị hoa cho phù hợp.
Sau 5-7 phút, giáo viên hô: “Dừng chơi !” Nhóm nào dán được nhiều cánh hoa đúng và đẹp sẽ thắng cuộc.
- Lưu ý:
Trò chơi này còn có thể vận dụng vào phân môn luyện từ và câu ở các bài: Từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, ôn tập về từ loại ……chỉ cần thay đổi yêu cầu ghi trên nhị hoa.
Khi kết thúc trò chơi, để khắc sâu kiến thức của bài, giáo viên có thể yêu cầu học sinh đặt câu với một vài từ tìm được và chuẩn bị sẵn các phiếu khen thưởng để động viên các em.
c. Trò chơi nhằm ôn tập tổng hợp và rèn óc tư duy :
Trò chơi “Xem ai nhớ nhất”
Trò chơi thường được vận dụng vào các bài ôn tập củng cố kiến thức đã học ở phân môn Luyện từ và câu.
Cụ thể là bài: “Ôn tập về dấu câu (dấu phẩy)”, bài tập 1, Tiếng Việt 5, tập 2, trang 124.
- Mục tiêu: Giúp học sinh :
Củng cố, khắc sâu kiến thức về tác dụng của dấu phẩy.
Rèn luyện khả năng tập trung, chú ý.
Rèn luyện các kĩ năng tư duy bậc cao như: phân tích- tổng hợp.
- Chuẩn bị:
Bộ bìa gồm 3 thẻ ghi các chữ A, B, C (mỗi thẻ 1 màu) tương ứng với các tác dụng của dấu phẩy :
A: Ngăn cách các bộ phận cùng chức vụ trong câu.
B: Ngăn cách trạng ngữ với chủ ngữ và vị ngữ.
C: Ngăn cách các vế câu trong câu ghép.
Một số thẻ từ ghi các câu học sinh cần phân tích :
Khi phương đông vừa vẩn bụi hồng, con họa mi ấy lại hót vang long.
Thế kỉ XX là thế kỉ giải phóng phụ nữ, còn thế kỉ XXI phải là thế kỉ hoàn thành sự nghiệp đó.
Hoa hồng vừa đẹp, vừa thơm………….
- Tiến hành:
Giáo viên chia học sinh thành các đội chơi theo dãy bàn. Phát cho mỗi học sinh một bộ thẻ chữ.
Khi giáo viên đọc và dán một thẻ ghi câu cần phân tích tác dụng của dấu phẩy lên bảng thì học sinh phải chọn một thẻ chữ tương ứng để giơ lên. Ví dụ, giáo viên đưa thẻ ghi câu đầu tiên thì học sinh phải giơ thẻ chữ B mới đúng.
Sau mỗi một câu (một lượt chơi), giáo viên hoặc 1 học sinh được cử làm trọng tài sẽ đếm số người trả lời đúng ở mỗi đội.
Khi trò chơi kết thúc, giáo viên sẽ thống kê số học sinh làm đúng ở các lượt chơi. Đội nào có số người trả lời đúng nhiều nhất, đội đó thắng cuộc.
- Lưu ý:
Để kiến thức về tác dụng của dấu phẩy được khắc sâu hơn, sau mỗi lượt chơi, giáo viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo của từng câu ghi trong thẻ.
Trò chơi này còn có thể vận dụng được vào rất nhiều bài ở phân môn Luyện từ và câu, nhằm củng cồ các kiến thức đã học như: củng cố kiến thức về từ đồng âm,từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ trái nghĩa; củng cố kiến thức về cách nối các vế câu ghép; củng cố kiến thức về cách liên kết các câu trong bài…….chỉ cần ta thay đổi các thẻ ghi các bài tập tương ứng.
IV. Kết quả nghiên cứu
- Trong thời gian tiến hành việc vận dụng các trò chơi học tập vào thực tế giảng dạy môn Tiếng Việt ở tiểu học, tôi nhận thấy không khí trong những giờ học trở nên sôi nổi hơn, học sinh rất tích cực, các em chuyển từ thụ động sang chủ động chiếm lĩnh kiến thức, thích thú với những hình thức học tập mới lạ. Ngoài ra những kĩ năng sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp của các em phát triển vượt bậc. Những học sinh giỏi thì ngày càng tự tin năng động, có trách nhiệm cao trong việc học tập còn những học sinh thụ động thì trở nên tích cực hơn, bắt đầu biết chia sẻ, hợp tác với các bạn để hoàn thành một nhiệm vụ học tập.
- Về phía bản thân tôi, tôi cảm thấy nhẹ nhàng hơn, không còn mệt mỏi khi truyền thụ kiến thức cho học sinh. Vì kiến thức được các em tiếp thu một cách chủ động tích cực thông qua trò chơi. Kĩ năng vận dụng trò chơi của tôi linh hoạt hơn, thành thạo hơn. Tôi có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc lựa chọn trò chơi sao cho phù hợp nhất, đảm bảo rèn đúng kĩ năng cho học sinh theo mục tiêu bài tập. Từ đó khả năng sáng tạo được nâng lên một bước, giúp cho cho tôi thiết kế được nhiều trò chơi học tập một cách nhanh nhạy hơn.
- Trong thời gian đầu vận dụng trò chơi học tập vào môn Tiếng Việt, tôi đã tiếp nhận được rất nhiều ý kiến thắc mắc, lo âu từ phía phụ huynh học sinh vì thấy trong tập vở của con em mình không ghi chép nhiều, không có bài tập về nhà. Tôi đã giải thích cụ thể từng trường hợp. Qua một thời gian, tự phụ huynh thấy được các em trở nên nhanh nhẹn hơn, thích thú hơn khi đến trường và đặc biệt là các em thích học môn Tiếng Việt hơn. Tôi đã thuyết phục được họ………
PHẦN 3 – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Việc sử dụng trò chơi học tập trong tiết học chính là tạo ra một môi trường học tập mà học sinh có thể tích cực chủ động hơn. Các em mạnh dạn tham gia các hoạt động. Từ đó những kĩ năng giao tiếp được phát triển. Sự say mê học tập của các em là nguồn động viên thúc đẩy tôi phải luôn vận dụng các trò chơi học tập vào tiết học. Đồng thời luôn tìm tòi, nghiên cứu thiết kế các trò chơi mới để lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập.
II. Kiến nghị
Khi vận dụng các trò chơi học tập cần lưu ý một số điều sau đây :
- Trò chơi học tập phải có luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, không đòi hỏi thời gian dài cho việc huấn luyện.
- Trò chơi cần diễn ra trong một thời gian hợp lí, phù hợp với tất cả các đối tượng học sinh.
- Sử dụng đúng lúc, đúng chỗ các trò chơi học tập sẽ có tác dụng rất tích cực, kích thích hứng thú học tập giúp tiết học đạt hiệu quả cao.
- Không lam dụng trò chơi học tập, biến cả tiết học thành tiết chơi hoặc tổ chức quá nhiều trò chơi trong tiết học gây cho học sinh sự mệt mỏi.
- Tránh lặp đi lặp lại trò chơi học tập trong tiết học sẽ không hấp dẫn học sinh, không thu hút học sinh.
Khi sáng tạo các trò chơi học tập cần lưu ý :
- Sáng tạo trên cơ sở phù hợp với mục tiêu bài học cũng như đặc trưng của từng phân môn.
- Việc làm đồ dùng phục vụ cho trò chơi phải đảm bảo tính khoa học, thẩm mỹ, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi tiểu học.
Trên đây là một số suy nghĩ của tôi về cách thiết kế và sử dụng trò chơi học tập để dạy học Tiếng Việt lớp 5. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành của các bạn đồng nghiệp, giúp cho việc thiết kế và sử dụng trò chơi học tập Tiếng Việt đạt hiệu quả tốt nhất góp phần đổi mới phương pháp dạy học thành công.
…………., ngày … tháng … năm 20…
Người viết
File đính kèm:
- 0502001.doc