Trong chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học, luyện từ và câu được tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với các phân môn khác như Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn.Ngoài ra Luyện từ và câu còn được đặt trong các phân môn khác thuộc môn Tiếng Việt và trong giờ học của các môn khác.Như vậy nội dung dạy về luyện từ và câu trong chương trình môn Tiếng Việt nói riêng, các môn học nói chung ở Tiểu học, chiếm một tỷ lệ đáng kể. Điều đó nói lên ý nghĩa quan trọng của việc dạy luyện từ và câu ở Tiểu học. Nói đến dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học người ta thường nói tới 3 nhiệm vụ chủ yếu là giúp học sinh phong phú hoá vốn từ, chính xác hoá vốn từ và tích cực hoá vốn từ. Phong phú hoá vốn từ còn gọi là mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ nghĩa là xây dựng một vốn từ ngữ phong phú, thường trực và có hệ thống trong trí nhớ học sinh, để tạo điều kiện cho từ đi vào hoạt động ngôn ngữ (nghe - đọc, nói - viết) được thuận lợi. Chính xác hoá vốn từ là giúp học sinh hiểu nghĩa của từ một cách chính xác - nhất là đối với những từ ngữ mà học sinh thu nhận được qua cách học tự nhiên, đồng thời giúp học sinh nắm được nghĩa của những từ ngữ mới. Tích cực hoá vốn từ là giúp học sinh luyện tập, sử dụng từ ngữ trong nói - viết, nghĩa là giúp học sinh chuyển hoá những từ ngữ tiêu cực ( từ ngữ mà chủ thể nói năng hiểu nhưng không hoặc ít dùng) thành những từ ngữ tích cực (từ ngữ được chủ thể nói năng sử dụng trong nói - viết) phát triển kỹ năng, kỹ xảo phát triển từ ngữ cho học sinh.
14 trang |
Chia sẻ: trangnhung19 | Lượt xem: 978 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vài biện pháp nâng cao chất lượng giờ học luyện từ và câu cho học sinh lớp 5 (từ và các lớp từ), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạng bài tập đặt câu, học sinh cần căn cứ vào đặc trưng về nghĩa của cặp từ trái nghĩa đó để đặt câu có nội dung thích hợp.
Hình thức vừa dạy tổ chức trò chơi như vậy ngay trong không gian lớp học, tại thời gian của lớp học làm cho học sinh đỡ căng thẳng, tạo được hứng thú và niềm tin trong học tập. Cứ mỗi khi chúng tôi cho các em tiếp xúc với đoạn thơ, câu đố, các em chăm chú theo dõi. Những đôi mắt ánh lên niềm vui thích rồi ào ạt xung phong. Em được chỉ định thì phấn khởi, hồ hởi, em không được gọi thì xuýt xoa rồi những tràng vỗ tay cổ vũ...
Hoặc khi dạy Bài: Nghĩa của từ:
Để chuyển tải được khái niệm nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ khi dạy bài: Nghĩa của từ, chúng tôi đã tìm cách đặt từ vào trong câu, nói rộng hơn là đặt từ trong ngữ cảnh. Ngữ cảnh có tác dụng hiện thực hoá, cụ thể hoá nghĩa của từ và để học sinh hiểu vấn đề, chúng tôi cung cấp: trong các nghĩa khác nhau của từ nhiều nghĩa, nghĩa nào là nghĩa trực tiếp, gần gũi, quen thuộc “dễ hiểu” thì đó là nghĩa gốc; còn nghĩa nào là nghĩa gián tiếp, phải suy ra, hiểu rộng ra từ nghĩa gốc, không thật gần gũi quen thuộc lắm, có phần “khó hiểu” thì đó là nghĩa chuyển.
Với cách dẫn dắt cụ thể như vậy, học sinh đã nhận biết được nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ rất nhạy bén.
Đây là loại bài dễ sa vào lối giảng giải lý thuyết khô khan, nặng nề, máy móc, đơn điệu mà chúng tôi cố gắng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc tự tìm ra tri thức bằng cách gợi dẫn thích hợp bằng những ví dụ hết sức cụ thể, rõ ràng.
Hay là khi dạy bài từ đồng nghĩa (tiết 1, tuần 1) chẳng hạn. Mặc dù sách giáo viên có hướng dẫn nhưng để học sinh dễ nắm bắt kiến thức về từ đồng nghĩa, hiểu dễ dàng thế nào là từ đồng nghĩa, chúng tôi đã tiến hành như sau:
- Đầu tiên chúng tôi cho học sinh quan sát tranh một chiếc máy bay bay trên bầu trời. Để tìm từ thay thế cho từ máy bay, bất ngờ chúng tôi lại đưa ra một chiếc tàu bay gấp bằng giấy rồi mô hình một chiếc phi cơ...để các em nhận biết và so sánh nghĩa của từ máy bay, tàu bay, phi cơ, các em dễ dàng hiểu được thế nào là từ đồng nghĩa.
Ở bài tập 1 của tiết 2 chúng tôi cho học sinh tìm từ đồng nghĩa chỉ màu sắc qua hình thức tổ chức tìm từ trong đoạn thơ sau:
* Ví dụ: Tìm các từ chỉ màu trắng:
Đàn cò đậu trắng phau phau
Đôi mắt trắng dã nhìn nhau hận thù
Mưa rào trắng xoá đất trời.
Cổ tay em trắng nõn nà xinh xinh
Mẹ may cho áo trắng tinh
Nhìn da trắng bệch bệnh tình bên trong
Tấm lòng nhân hậu trắng trong
Hạt gạo trắng bóng bao công chuyên cần
Nước da bạn gái trắng ngần
Bãi cát trắng mịn dưới chân sóng trào
Đầu trọc trắng hếu người chê
Tường vôi trắng toát thôn quê đẹp giàu
(TNTP số 119 tháng 10/2001)
Cách tổ chức như vậy nhằm củng cố kiến thức vừa đáp ứng nhu cầu tích cực hoá hoạt động học tập của các em, hình thành năng lực tư duy tốt mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và phát triển rèn luyện óc suy nghĩ tổng hợp, sự quan sát nhanh cùng với sự thích thú của lứa tuổi hiếu động, giàu cảm xúc, hồn nhiên, luôn ưa thích cái mới lạ, vui tươi, hấp dẫn.
Biện pháp2: Coi trọng việc mở rộng vốn từ cho học sinh.
Đây là nhiệm vụ cơ bản của phân môn Luyện từ và câu. Khi có vốn từ phong phú, học sinh rất thuận lợi trong giao tiếp và tư duy.
Ở lớp 5, loại bài tập mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ được sử dụng khá nhiều dưới các dạng khác nhau: Tìm từ ngữ cùng chủ đề, tìm từ có tiếng cho trước, tìm từ cùng nghĩa, gần nghĩa, tìm từ có cùng yếu tố cấu tạo.
Có thể mở rộng vốn từ bằng nhiều cách:
+ Cách ghép từ: Xuất phát từ từ gốc, bằng phương pháp ghép từ sẽ cho ra các từ mới.
* Ví dụ: Bài tập 3 tiết 3 (Sgk 5) yêu cầu học sinh tìm một số từ có tiếng “đồng” (theo nghĩa là cùng).
Để học sinh có được vốn từ khá phong phú, tôi đã cho học sinh thi tìm từ điền vào bài thơ sau:
.................son sắt một lòng (đồng lòng)
.................là chỗ cùng làng, cùng quê (đồng hương)
.................ý hợp tâm đầu (đồng tình)
.................sát cánh chẳng hề xa nhau (đồng đội)
..................chung lớp chung trường (đồng môn)
...................tiến bước trước sau nhịp nhàng (đồng hành)
...................tay nắm chặt tay (đồng chí)
...................sum họp bốn phương một nhà (đồng bào)
..................quần áo quả là đẹp thay (đồng phục)
...................hội tụ một nơi (đồng qui)
..................cộng khổ ngọt bùi sẻ chia (đồng cam)
..................cộng tác cùng nghề (đồng nghiệp)
..................thống nhất xin mời giờ tay (đồng ý)
Hay là để tìm một số từ có tiếng “cổ” (xưa, cũ).
Giáo viên nói: Người ta coi đồ cổ là vật quí, nhưng nhiều thứ cổ khác lại quí hơn nhiều. Em đọc bài thơ sau và hãy tìm từ thích hợp điền vào chỗ trống để thấm thía hơn về giá trị của những thứ “cổ” ấy.
Đầu xuân vui tết ____(cổ truyền).
Hội làng: vật võ, đu tiên, chọi gà.
Ngôi chùa___làng ta (cổ kính).
Mùa hè gió mát là đà bóng cây
Quê mình đẹp nhất nơi đây
Cây đa ____hồ đầy nước trong (cổ thụ)
Câu chuyện ____ đêm đông (cổ tích).
Bà em đã kể đầy tình yêu thương
_____răn dạy bao lời (cổ nhân)
Chơi nhạc ____ hai ba chục người (cổ điển)
Lâu đài ____ vắng người (cổ kính)
Có cây ____ giữa trời mà reo (cổ thụ).
(TNTP số 5 tháng 1/2007)
b. Phương pháp liên tưởng: Từ 1 từ cho trước sẽ cho ra 1 từ mới cùng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa với từ cho sẵn.
Loại bài tập này bao gồm một số dạng sau:
Dạng 1: Điền từ vào chỗ trống.
Sạch sẽ là không ..................
............là không lộn xộn
.............là không luộm thuộm.
Dạng 2: Tìm từ cùng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa được nêu trực tiếp.
Loại bài tập này giúp học sinh thu thập thêm những từ đồng nghĩa, trái nghĩa mà trước nay bản thân chưa biết hoặc chưa nhận ra, đồng thời tạo cho học sinh một sự nhạy cảm, để đến khi có nhu cầu giáo tiếp ngôn từ thì có thể dễ dàng huy động các từ đồng nghĩa, trái nghĩa có như vậy vốn từ của học sinh mới ngày càng phong phú, mới đáp ứng được nhu cầu sử dụng trong hoạt động nói - viết của học sinh.
c. Phương pháp láy: Tìm ra từ mới bằng cách lặp lại một bộ phận của từ, hoặc láy lại từ đã cho.
* Ví dụ: Từ từ gốc “vàng” láy từ sẽ cho ra các từ:
Vàng vọt, vàng vàng.
Từ từ gốc “xinh” láy từ sẽ cho ra các từ:
Xinh xẻo, xinh xinh, xinh xắn.
6. Kết quả:
Với những biện pháp trên, qua gần 2 năm thực hiện trên lớp 5/1 của chúng tôi, chúng tôi nhận thấy.
- Giờ học Luyện từ và câu trở nên nhẹ nhàng, hiệu quả hơn.
- Chất lượng giờ học được nâng lên: tỉ lệ học sinh hiểu bài, phát biểu bài nhiều hơn, chính xác hơn.
- Học sinh tích cực, chủ động hơn trong giờ học.
- Học sinh ham thích khi được học Luyện từ và câu.
- Học sinh được bộ lộ khả năng của mình trước lớp qua các bài tập, trò chơi, câu đố.
- Vốn từ ngữ của học sinh phong phú hơn.
- Trong giao tiếp học sinh nhạy bén, tự tin, nói năng dùng từ chuẩn hơn.
- Đặc biệt các em nhạy bén trong việc tìm từ mới qua từ cho sẵn.
Sau đây là bảng phân tích kết quả:
Trước khi áp dụng phương pháp
Sau khi áp dụng phương pháp
Năm học 2006 - 2007
Năm học 2007 - 2008
Năm 2008 - 2009
G
K
TB
Y
G
K
TB
Y
G
K
TB
Y
5%
25%
62%
8%
10%
40%
45%
5%
17%
70%
10%
3%
7. Kết luận:
Qua quá trình áp dụng các biện pháp để nâng chất lượng giờ dạy - học Luyện Từ và Câu lớp 5, chúng tôi rút ra bài học quí báu:
- Giáo viên cần phải nghiên cứu bài thật kỹ trước khi dạy.
- Giáo viên nắm vững nội dung cần dạy cho học sinh.
- Giáo viên phải có những phương pháp dạy học thoả đáng.
- Đồ dùng dạy học cần chuẩn bị đa dạng phong phú càng nhiều vật thật càng tốt.
- Giáo viên chịu khó sưu tầm hoặc sáng tác các bài thơ, câu đố vui liên quan đến bài học.
- Giáo viên cần linh hoạt lựa chọn phương pháp thích hợp cho từng bài dạy để hấp dẫn học sinh.
- Giáo viên cần có những hình thức động viên kịp thời đối với những học sinh có tiến bộ.
- Cố gắng phát huy tối đa tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập.
8. Đề nghị:
- Bộ Giáo dục & Đào tạo cần có nhiều chuyên san về phân môn Luyện từ và câu để giáo viên tham khảo cách giảng dạy.
- Phòng Giáo dục & Đào tạo cần mở chuyên đề dạy Luyện từ và câu lớp 5 nhiều hơn để giáo viên rút kinh nghiệm giảng dạy.
9. Phụ lục.
THƠ VUI NGÔN NGỮ
Bài 1: VUI CÙNG TỪ LÁY TƯỢNG HÌNH
Đu đưa cánh võng trưa hè
Ánh trăng vắt vẻo ngọn tre đầu làng.
Trái cam tròn trịa chín vàng.
Lớp em ngay ngắn xếp hàng trước sân
Nhẹ nhàng rón rén trước chân
Đàn gà múp míp ngoài sân tìm mồi
Nước sông cuồn cuộn cuốn trôi
Rầu rầu ngọn cỏ trên đồi nắng chang
Thể thao cơ thể nở nang
Cánh đồng bát ngát chín vàng trĩu bông
Cánh diều chấp chơi trên không
Trăng tròn vành vạnh mênh mông ánh vàng
Đàn trâu đủng đỉnh về làng
Căn nhà vuông vức gọn gàng mới xây
Những cô má đỏ hây hây
Dập dìu qua lại những ngày đầu xuân
(Trần Anh Đào THCS Lê Quý Đôn,
Hà Lam Thăng Bình, Quảng Nam)
Bài 2: TIẾNG VIỆT PHONG PHÚ
Từ “BẤT”
Bên tàu bất tức là “không”
Ví như: bất cẩn, bất công, bất tài.
Bất tận dài ơi là dài
Bất khả xâm phạm không ai đụng vào !
Bất hạnh đời những khổ đau
Bất hoà mà ở với nhau thêm buồn
Làm điều độc ác: bất nhân
Không lường trước được bất thần xảy ra
Bất đắc kỳ tử, ái chà
Chết không kịp ngáp, thành ma tức thì !
Bất chấp sá gì hiểm nguy
Bất minh nên có khoản chi bất thường
Không lương thiện kẻ bất lương
Bất nghĩa mất cả tình thương gia đình
Học trò học bất phương trình
Bài khó bất lực thôi đành điểm hai
(TNTP /2005)
10. Tài liệu tham khảo:
STT
Tên tài liệu
Trang
1
Sách Tiếng Việt lớp 5.
2
Sách Tiếng Việt giáo viên lớp 5
3
Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học - NXB Giáo dục
150
4
Nghiên cứu Tiếng Việt - NXB Giáo dục
216
5
Báo Thiếu niên Tiền Phong
Năm 2007, năm 2002, năm 2001, 2005
6
Từ điển Tiếng Việt - NXB Giáo dục.
7
Dạy Từ ngữ trong nhà trường Tiểu học - Xuất bản năm 2000.
11/MỤC LỤC
TT
TÊN MỤC
TRANG
1
Tên đề tài
1
2
Đặt vấn đề
1
3
Cơ sở lý luận
1
4
Cơ sở thực tiễn
2
5
Nội dung nghiên cứu
3
6
Kết quả
8
7
Kết luận
9
8
Đề nghị
9
9
Phụ lục
10
10
Tài liệu tham khảo
11
11
Mục lục
12
File đính kèm:
- day tot luyen tu va cau lop 5.doc