Chương trình toán của tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Toán học góp
phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học
sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các số tự nhiên, các
số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời
sống và một số yếu tố hình học đơn giản.
Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá,
khái quán hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý
khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng viết, các, suy luận đơn giản, góp
phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo.
Mục tiêu nói trên được thông qua việc dạy học các môn học, đặc biệt là môn toán.
Môn này có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa học nghiên cứu
hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống sinh hoạt và lao động
của con người. Môn toán là ''chìa khoá'' mở của cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là
công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn
không thể thiếu được trong nhà trường, nó giúp con người phát triển toàn diện, nó góp
phần giáo dục tình cảm, trách nhiệm, niềm tin và sự phồn vinh của quê hương đất nước.
13 trang |
Chia sẻ: ngocnga34 | Lượt xem: 845 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uan trọng của câu hỏi trong bài toán. Muốn vậy có
thể dùng biện pháp: thường xuyên gợi cho các em phân tích đề toán để xác định cái đã
cho, cái phải tìm, các dữ kiện của bài toán , câu hỏi của bài toán, đôi khi nêu cho các em
bài toán vui không giải được, chẳng hạn: " trên cành cây có 10 con chim, người thợ săn
bắn rơi 2 con. Hỏi trong lồng còn mấy con chim?" có em sẽ nhẩm và trả lời là 8 con, lúc
đó giáo viên sẽ giải thích để học sinh nhận ra cái sai trong câu hỏi của bài toán.
Đối với toán có lời văn ở lớp 5, chủ yếu là các bài toán hợp, giải bài toán cũng có
nghĩa là giải quyết các bài toán đơn. Mặt khác các dạng toán đều đã được học ở các lớp
trước, bao gồm hai nhóm chính như sau:
a) Nhóm 1: Các bài toán hợp mà quá trình giải không theo một phương pháp thống
nhất cho các bài toán đó.
b) Nhóm 2: Các bài toán điển hình, các bài toán mà trong quá trình giải có
phương pháp riêng cho từng dạng bài toán. Trong chương trình toán 5 có những dạng
toán điển hình sau:
- Tìm số trung bình cộng.
- Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.
- Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó.
- Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó.
- Bài toán liên quan đến đại lượng tỉ lệ thuận, liên quan đến đại lượng tỉ lệ nghịch.
Người giáo viên phải nắm vững các dạng toán để khi hướng dẫn học sinh giải toán
sẽ tổ chức cho học sinh trước hết xác định dạng toán để có cách giải phù hợp.
Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. Hình thành kỹ năng giải
toán khó hơn nhiều so với hình thành kỹ năng tính vì bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều
khái niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải toán không chỉ là nhớ mẫu để rồi áp dụng , mà
đòi hỏi nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm chắc ý nghĩa của phép tính, đòi hỏi
khả năng độc lập suy luận của học sinh, đòi hỏi biết tính đúng.
Le Quoc Kich - Truong Tieu hoc Nga Nam 1
Trường Tiểu học Ngã năm 1 Giáo viên: Lê Quốc Kịch
8
Các bước để giải một bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và lớp Năm nói
riêng đã được đề cập ở một số sách về phương pháp giải toán ở bậc tiểu học. Ở đây rút ra
một số kinh nghiệm hướng dẫn: Phần dạy toán có lời văn ở lớp Năm.
Ở lớp 5 việc học phân số, học số thập phân, học về các đơn vị đo đại lượng ...
cũng được kết hợp học các phép tính, học giải toán được kết hợp một cách hữu cơ để có
tác dụng hỗ trợ lẫn nhau. Việc dạy cho học sinh nắm được phương pháp chung để giải
toán được chú trọng ngay từ khi các em giải bài toán đầu tiên ở đầu bậc tiểu học và sau
này vẫn được thường xuyên quan tâm, các em luôn được rèn luyện trong việc tìm hiểu đề
toán, trong việc phân tích cái gì đã cho, cái gì phải tìm trong việc suy nghĩ tìm ra cách
giải và trong việc thực hiện cách giải. Đặc biệt, các em được thường xuyên sử dụng việc
tóm tắt đề toán bằng sơ đồ, hình vẽ.
Sau đây là một số ví dụ về các dạng bài toán có lời văn ở lớp 5:
Ví dụ1: Bài 5 ( tr 120 SGK Toán 5) Bài toán về đại lượng tỉ lệ thuận.
Một làng lát ngõ, cứ 100 kg xi măng thì lát được 2,5 m. Ngõ làng dài 240 m. Tính
số tấn xi măng phải mua ?
Bài giải
Số xi măng lát một mét ngõ là:
100 : 2,5 = 40 (kg)
Số xi măng phải mua để lát ngõ là:
40 x 240 = 9600 (kg)
= 9,6 (tấn)
Đáp số: 9,6 tấn.
Ví dụ 2: Bài 3 ( tr 193 SGK Toán 5) Toán chuyển động đều.
Một ô tô đi hết quãng đường dài94,5 km với vận tốc 42 km / giờ. Hỏi ô tô đó đã đi
hết bao nhiêu giờ và bao nhiêu phút ?
Bài giải
Thời gian ô tô đi hết quãng đường là:
94,5 : 42 = 2,25 (giờ)
= 2 giờ 15 phút
Đáp số: 2 giờ 15 phút.
Ví dụ 3: Bài 4 (tr 125 SGK Toán 5) Toán về tỉ lệ nghịch.
Một đội thợ xây dựng có 8 người xây xong một bức tường trong
2
15 ngày. Hỏi
muốn xây xong bức tường đó trong 4 ngày thì cần bao nhiêu thợ xây (sức làm ngang
nhau).
Tóm tắt:
2
15 ngày cần: 8 người
4 ngày cần: ? người
Le Quoc Kich - Truong Tieu hoc Nga Nam 1
Trường Tiểu học Ngã năm 1 Giáo viên: Lê Quốc Kịch
9
Bài giải:
2
15 ngày =
2
11
ngày
Xây xong trong 1 ngày thì cần số thợ là:
8 x
2
11
= 44 (thợ)
Xây xong trong 4 ngày thì cần số thợ là:
44 : 4 = 11 (thợ)
Đáp số: 11 thợ.
Ví dụ 4: Bài 3 (tr94) Bài toán về nhân số thập phân với số thập phân.
Một vườn cây hình chữ nhật có chiều dài 15,62 m, chiều rộng 8,4 m. Tính chu vi
và diện tích vườn cây đó.
Tóm tắt:
Chiều dài: 15,62 m
Chiều rộng: 8,4 m
Chu vi: ? m; Diện tích: ?
Bài giải:
Chu vi vườn cây hình chữ nhật là:
( 15,62 + 8,4 ) x 2 = 48,04 (m)
Diện tích vườn cây hình chữ nhật là:
15,62 x 8,4 = 131,208 (m2)
Đáp số: 1) 48,08 m
2) 131,208 m2
Đối với các bài toán có lời văn như trên, giáo viên nên khuyến khích học sinh tự
nêu ra các giả thiết đã biết, cái cần phải tìm, cách tóm tắt bài toán và tìm đường lối giải.
Các phép tính giải chỉ là khâu thứ yếu mang tính kĩ thuật.
* Một số bài nâng cao dành cho dành cho học sinh khá, giỏi:
Đối với những đối tượng học sinh đã giải được và giải thành thạo các bài toán đơn cơ
bản, thì việc đưa ra hệ thống bài tập nâng cao là rất quan trọng và cần thiết để cho học
sinh có điều kiện phát huy năng lực trí tuệ của mình, vượt xa khỏi tư duy cụ thể mang
tính chất ghi nhớ và áp dụng một cách máy móc trong công thức. Qua đó phát triển trí
thông minh cho học sinh.
Dưới đây là các dạng bài nâng cao mà tôi đã thực hiện trong các tiết dạy để nâng cao
tính hiểu biết của học sinh đồng thời bồi dưỡng học sinh giỏi.
Ví dụ 1:
Hai người thợ cùng làm chung một công việc thì sau 5 giờ sẽ xong. Sau khi làm
được 3 giờ thì người thợ cả bận việc phải nghỉ, chỉ còn người thợ thứ hai phải làm nốt
công việc còn lại trong 6 giờ. Hỏi nếu mỗi người thợ làm một mình thì mất mấy giờ mới
xong công việc ?
Bài giải:
Le Quoc Kich - Truong Tieu hoc Nga Nam 1
Trường Tiểu học Ngã năm 1 Giáo viên: Lê Quốc Kịch
10
Hai người làm chung thì hết 5 giờ mới xong. Vậy mỗi giờ 2 người làm được
5
1
công việc.
Trong 3 giờ, hai người làm được là:
5
1
x 3 =
5
3
(công việc)
Phân số chỉ công việc người thứ hai làm một mình là:
1 -
5
1
=
5
2
(công việc)
Mỗi giờ người thứ hai làm được là:
5
2
: 6 =
15
1
(giờ)
Thời gian người thứ hai làm một mình là:
1 :
15
1
= 15 (giờ)
Mỗi giờ người thứ nhất làm được là:
5
1
-
15
1
=
15
2
(công việc)
Thời gian người thứ nhất làm một mình là:
1 :
5
2
= 7
2
1
giờ = 7 giờ 30 phút
Đáp số: 1) 7 giờ 30 phút;
2) 15 giờ.
Ví dụ 2:
Mạnh, Hùng, Dũng và Minh có 1 số quyển vở. Mạnh lấy
3
1
số vở để dùng, Hùng
lấy
3
1
còn lại, Dũng lấy
3
1
còn lại, cuối cùng Minh dùng nốt 8 quyển vở. Hỏi lúc đầu cả 4
bạn có tất cả bao nhiêu quyển vở ?
Tóm tắt:
Bài giải:
Số vở của Dũng và Minh là:
8 : 2 x 3 = 12 (quyển)
Số vở của Dũng, Minh, và Hùng là:
12 : 2 x 3 = 18 (quyển)
Mạnh
Hùng
Dũng Minh 8 vở
Le Quoc Kich - Truong Tieu hoc Nga Nam 1
Trường Tiểu học Ngã năm 1 Giáo viên: Lê Quốc Kịch
11
Số vở của 4 bạn lúc đầu là:
18 : 2 x 3 = 27 (quyển)
Đáp số: 27 quyển.
IV/ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Sau khi nghiên cứu đề ra một số biện pháp giải toán có lời văn ở lớp 5, tổ tôi thống
nhất tổ chức thực hiện chuyên đề toán, về phương pháp, về cách giải toán có lời văn cho
học sinh lớp 5 đã và đang được triển khai áp dụng thực hiện ở các lớp trong khối 5.
Le Quoc Kich - Truong Tieu hoc Nga Nam 1
Trường Tiểu học Ngã năm 1 Giáo viên: Lê Quốc Kịch
12
Phần thứ ba
KẾT LUẬN - ĐỀ XUẤT
I. KẾT LUẬN:
Hướng dẫn và giúp học sinh giải toán có lời văn nhằm giúp các em phát triển tư
duy trí tuệ, tư duy phân tích và tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, rèn luyện tốt
phương pháp suy luận lôgic. Bên cạnh đó đây là dạng toán rất gần gũi với đời sống thực
tế.
Do vậy, việc giảng dạy toán có lời văn một cách hiệu quả giúp các em trở thành
những con người linh hoạt, sáng tạo, làm chủ trong mọi lĩnh vực và trong cuộc sống thực
tế hàng ngày.
II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT:
Qua thực tế giảng dạy môn toán ở Trường tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng,
người giáo viên phải luôn luôn tìm tòi học hỏi, trao dồi kinh nghiệm để nâng cao trình độ
nghiệp vụ.
Đối với giáo viên, ở mỗi dạng toán cần hướng dẫn học sinh nhận dạng bằng nhiều
cách: đọc, nghiên cứu đề, phân tích bằng nhiều phương pháp ( Mô hình, sơ đồ đoạn
thẳng, suy luận ....) để học sinh đễ hiểu, dễ nắm bài hơn. Không nên dừng lại ở kết quả
ban đầu ( giải đúng bài toán ) mà nên có yêu cầu cao hơn đối với học sinh.
Ví dụ: Như yêu cầu học sinh ra một đề toán tương tự hoặc tìm nhiều lời giải khác
nhau....
Giáo viên phải luôn đổi mới phương pháp dạy bằng nhiều hình thức như: trò chơi,
đố vui.... phù hợp với đối tượng học sinh của mình: " Lấy học sinh để hướng vào hoạt
động học, thầy là người hướng dẫn, tổ chức, trò nhận thức chủ động trong việc giải toán
''.
Trong giảng dạy giáo viên cần chú ý phát triển tư duy, khả năng phân tích, tổng
hợp, khả năng suy luận lôgíc, giúp các em nắm chắc kiến thức cụ thể. Với toán có lời
văn, đó là cách giải và trình bày lời giải, sử dụng tốt tất cả các phương pháp đã nêu ở
trên.
Không nên dừng lại ở kết quả ban đầu ( giải đúng bài toán ) mà nên có yêu cầu
cao hơn đối với học sinh. Ví dụ: Như yêu cầu một học sinh ra một đề toán tương tự hoặc
tìm nhiều lời giải khác nhau.....
Trong khi giải phải yêu cầu học sinh đặt câu hỏi: '' Làm phép tính đó để làm gì ?'' ,
từ đó có hướng giải đúng, chính xác.
Sau mỗi bài giải, học sinh phải biết xem xét lại kết quả mình làm để giúp các em
tự tin hơn khi giải quyết một vấn đề gì đó.
Qua cách dạy đã nêu trên đây, so với các lớp học theo chỉ dẫn của sách giáo khoa
và sách giáo viên học sinh dễ hiểu bài hơn, dễ áp dụng hơn. Qua kết quả học tập của học
sinh, các đồng nghiệp trong khối nhận thấy cách hướng dẫn trên là hay và có hiệu quả.
Ngã Năm, ngày 07 tháng 10 năm 2013
Lê Quốc Kịch
Le Quoc Kich - Truong Tieu hoc Nga Nam 1
Trường Tiểu học Ngã năm 1 Giáo viên: Lê Quốc Kịch
13
Le Quoc Kich - Truong Tieu hoc Nga Nam 1
File đính kèm:
- Chuyen de Giai toan co loi van Lop 5Giao vien LE QUOC KICHdoc.pdf