Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông và các cấp học trên. Là những chủ nhân tương lai của đất nước, đòi hỏi học sinh phải có vốn kiến thức cần thiết.
Giúp học sinh có vốn kiến thức đó, nhiệm vụ của môn tiếng Việt ở tiểu học nhằm trang bị cho các em những kiến thức về hệ thống tiếng Việt, chuẩn tiếng Việt, rèn cho học sinh kĩ năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp. Trong đó phân môn "Luyện từ và câu" là một trong những phân môn quan trọng có ý nghĩa to lớn trong chương trình tiểu học. Luyện từ và câu giúp học sinh mở rộng, hệ thống hoá vốn từ và trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu. Rèn cho học sinh một số kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu. Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói - viết thành câu, có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp, rèn luyện phát triển tư duy, bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp cho học sinh.
13 trang |
Chia sẻ: badger15 | Lượt xem: 975 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học "luyện từ và câu" cho học sinh lớp 4, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n diện danh từ chỉ đơn vị với các tiểu loại danh từ khác, cần chỉ cho học sinh thấy rằng các từ chỉ đơn vị như: cái, con, tấm, dãy, cơn, ... có thể kết hợp với các từ chỉ số lượng là: một, hai, các, vài, luỹ, ... trông khi đó không phải từ chỉ sự vật nào cũng có thể kết hợp được với từ chỉ số lượng.
* Ví dụ: Không thể nói: " một sông","hai tre" mà phải nói : " một con sông", " hai luỹ tre".
Các danh từ chỉ sự vật nếu không thể biểu thị một sự vật đơn thể như: bàn, ghế, áo, người, ... mà biểu thị các sự vật tồn tại thành tổng thể như: nước, mưa, quần áo, ... thì không thể kết hợp với từ chỉ số lượng. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số danh từ chỉ loại thường gặp như:
- Danh từ chỉ loại đi với vật thể: cái, con, cây, quả, người, ... ( người thợ, cây bàng, con khỉ, ...) đứa, thằng, ông, bà, ... ( ông bác sĩ, bà kĩ sư, ...)
- Danh từ chỉ loại đi với danh từ chất thể ( vải, nước, nhôm, đồng ) : cục, thanh, tấm, giọt, hạt, ... ( Ví dụ như: tấm vải, giọt nước, ...)
- Danh từ chỉ loại đi với danh từ chỉ hiện tượng: cơn, làn, trận, ... (cơn mưa, trrận bão, ...)
Khi dạy kiến thức sơ giản về câu, học sinh dễ nhầm lẫn vị ngữ trong câu kể Ai thế nào ? là động từ chứ không phải là tính từ. Các em thường có xu hướng xác định mọi câu kể có động từ thuộc câu kể Ai làm gì? Các em quen với động từ là từ chỉ hành động bởi khái niệm " trạng thái", " tình thái" chưa được hình thành hoặc hình thành chưa rõ ràng. Vì vậy khi dạy học, giáo viên kêt hợp miêu tả bằng động tác hoặc hình vẽ với những ví dụ để học sinh hình dung sự khác nhau giữa hành động và trạng thái.
- Hành động thể hiện trực tiếp những đặc điểm vận động của chủ thể (Ví dụ : chạy, nhảy, viết, đi, ...)
- Trạng thái thể hiện mối liên hệ giữa vận động của thực thể trong một hoàn cảnh hoặc không gian, thời gian. ( Ví dụ: Mặt trời toả nắng. Bé Hoa ngủ. Hoa nở rộ trong vườn. ...)
Giáo viên nên giới thiệu thêm một số động từ chỉ trạng thái thường dùng thể hiện ý nghĩa về sự cần thiết như: cần, nên, phải, ... Từ chỉ khả năng như: có thể, không thể, ... Từ thể hiện ý chí, ý định: toan, định, nỡ, dám, ... Từ thể hiện sự mong muốn: mong ước, ước mơ, ... Từ thể hiện ý nghĩ hay nhận xét: nghĩ, tưởng, xem, cho, ... ( Ví dụ: Tôi cho rằng hoa hồng đẹp nhất)
Việc nhận diện trạng ngữ cũng là một vấn đề khó đối với các em. Về vai trò ngữ pháp, trạng ngữ là thành phần phụ không bắt buộc phải có mặt trong câu, nhưng thêm phần trạng ngữ cho câu là để phản ánh đầy đủ tình cảm, nhận thức chủ quan của người nói. Về cấu tạo trạng ngữ là một cụm từ có hoặc không có quan hệ từ đúng trước. Trạng ngữ có thể đứng ở đầu câu, giữa câu hoặc cuối câu. Trạng ngữ ở đầu câu dễ gặp nhất, học sinh dễ nhận thấy còn trạng ngữ ở giữa câu và cuối câu học sinh khó nhận diện.SGK Tiếng Việt 4 chỉ nêu trường hợp trạng ngữ đứng ở đầu câu nhưng nếu học sinh đặt những câu có trạng ngữ ở vị trí khác, giáo viên vẫn chấp nhận và chỉ rỏ cho hóc sinh thấy vị trí linh hoạt của trạng ngữ.
2.5. Dạy học sinh tích luỹ kiến thức:
Học tiếng Việt, sử dụng tiếng Việt cũng như con người bước vào cuộc đời đều phải mang theo mình những hành trang cần thiết, đó là những kinh nghiện, những bài họcvề cuộc sống, những hiểu biết về thế giới xung quanh. Muốn học tốt môn Tiếng Việt, giáo viên cần cho học sinh hiểu phải hết sức coi trọng việc tích luỹ kiến thức. Nguồn kiến thức về cuộc sống xung quanh, tình cảm gia đình, cộng đồng và những cảnh vật trong cuộc sống đó là: bờ tre, giếng nước, đường làng, ... Nguồn kiến thức vô cùng quan trọng để các em tích luỹ đó là kiến thức sách vở trong chương trình tiểu học, sách báo, tạp chí, ... Muốn có được kién thức ấy, giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát thực tế, ghi chép váo kí ức, lập cuốn sổ tay " Từ điển tiếng Việt" ghi thành từng mục từ ngữ hay theo chủ đề từ cùng nghĩa, trái nghĩa, tục ngữ, ca dao, châm ngôn, những gương người tốt, việc tốt. Sắp xếp thành chuyên mục như vậy sẽ dể tìm, dể lấy để vận dụng đặt câu, dùng từ ngữ khi giao tiếp ...
* Ví dụ: Khi dạy bài " Mở rộng vốn tử: Dũng cảm" ( tuần 26 )
Bài tập 1: Tìm những từ ngữ cùng nghĩa và trái nghĩa với từ " dũng cảm", các em có thể dùng "Từ điển tiếng Việt " của mình để thi đua tìm được nhiều từ cùng với các bạn hoặc các em sẽ ghi chép thêm những từ ngữ của các bạn tìm được mà trong sổ mình chưa có.
- Từ cùng nghĩa : quả cảm, gan dạ, gan góc, anh dũng, ...
- Từ trái nghĩa: nhát gan, nhút nhát, hèn nhát, bạc nhược, ...
2.6. Thủ thuật lên lớp của giáo viên:
Một yếu tố quan trọng góp phần quyết định thành công hay không của một tiết dạy đó là thủ thuật lên lớp của giáo viên. Để tiến trình giờ dạy hợp lí, đảm bảo thời gian và sử dụng các phương pháp dạy học hài hoà giáo viên cần phải nghiên cứu phân bố thời gian từng phần sao cho hợp lí: lúc nào giáo viên giảng giải, lúc nào học sinh làm việc, trò chơi như thế nào để gây hứng thú cho các em. Lời giảng, giọng nói của giáo viên ấm áp, nhẹ nhàng, truyền cảm sẽ làm cho tiết học hiệu quả hơn. Vì vậy lời nói của giáo viên cần tự nhiên, chuẩn và đủ, dẫn dắt, chuyển ý ngắn gọn có sự logic, hợp lí. Cần chấm chữa bài, sửa lỗi, đánh giá thường xuyên và cho học sinh tham gia vào quá trình đánh giá.
2.7 Tổ chức để tất cả học sinh được làm việc với sách giáo khoa và phương tiện dạy học :
Sách giáo khoa là phương tiện học tập nên bất kì lúc nào học sinh cũng làm việc với sách giáo khoa. Đọc mục nhận xét, làm bài tập, dùng bút chì gạch chân những từ ngữ trọng tâm, quan sát hình vẽ trong sách giáo khoa, đọc ghi nhớ, ... Sử dụng tranh ảnh, vật thật và các phương tiện dạy học khác đúng lúc.
2.8. Tổ chức nhóm học tập, đôi bạn cùng tiến:
Để giúp các em khai thác có hiệu quả nội dung bài học, luyện tập cách giao tiếp, thảo luận nhóm,cặp là hình thức học tập rất có hiệu quả. Khi thảo luận các em được nói, nghe bạn nói, nhận xét vì thế tập cho các em tự tin, mạnh dạn trong học tập.
2.9. Dạy kiến thức về từ và câu theo hướng tích hợp các phân môn tiếng Việt và các môn học khác trong chương trình :
Ngoài việc cung cấp kiến thức tiếng Việt cho các em ở tiết Luyện từ và câu trong chương trình môn học, tôi còn sửa chữa và giảng thêm về kiến thức từ, câu trong các tiết học khác như: Chính tả, Tập làm văn, Kể chuyện,Toán, TH-XH, ...
* Ví dụ : Khi giải toán học sinh đặt lời giải sai nghĩa hoặc không chặt chẽ, tôi hướng dẫn các em cách chọn lời giải ngắn gọn, đủ ý. Trong các tiết Tập đọc, Kể chuyện vào những lúc thích hợp tôi thường khuyến khích học sinh nhận nghĩa của từ, cho học sinh vận dụng từ ngữ để đặt câu.
III. KẾT QUẢ:
Nhờ áp dụng các biện pháp trên nên chất lượng môn tiêng Việt so với đầu năm có nhiều tiến bộ rõ nét . Trước đây các em chưa hiểu nghĩa từ, vận dụng từ còn sai, đặt câu còn khô khan, rời rạc, chưa đủ ý hoặc dài dòng. Nay các em đã hiểu nghĩa của từ theo từng chủ điểm, biết giải nghĩa từ, vận dụng từ vào trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Các em đã biết dùng từ hay, giàu hình ảnh, biết phát hiện câu chưa đúng. Đặc biệt các em đã biết vận dụng để làm các bài tập làm văn hay. Kết quả là qua các đợt kiểm tra định kì phần "Đọc hiểu và Luyện từ và câu" không có em nào dưới điểm trung bình, điểm khá giỏi tương đối cao.
Kết quả của môn Tiếng Việt cụ thể như sau:
Các đợt kiểm tra định kì
Kết quả
Giỏ
Khá
TBình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Giữa học kì I
Cuối học kì I
Giữa học kì II
Cuối học kì II
CHƯƠNG III
CHƯƠNG III
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Dạy kiến thức Luyện từ và câu cho học sinh là một mắt xích quan trọng trong chuỗi kiến thức tiếng Việt. Vì thế đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ chuyên môn vững vàng, có vốn kiến thức về tiếng Việt phong phú, nắm chắc các biện pháp tu từ, ngữ nghĩa để phân tích nhằm mở rộng vốn hiểu biết cho các em. Giáo viên cần nắm vững cấu trúc chương trình, đặc điểm tâm lí trẻ để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp, đạt hiệu quả cao.
Xuất phát từ cơ sở thực tiễn, tôi xin đưa ra một số bài học kinh nghiệm trong việc dạy Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4 như sau:
1. Trước khi lên lớp, giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung bài học, lập kế hoạch và lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp.
2. Giọng nói nhẹ nhàng, truyền cảm, ấm áp, lời nói tự nhiên, chuẩn và đủ nghe, không giảng giải dài dòng. kết hợp với ánh mắt, nét mặt, cử chỉ tạo vẻ hấp dẫn, tránh giờ học khô khan gây nhàm chán, mất hứng thú học tâp của học sinh.
3. Sử dụng có hiệu quả các phương tiện dạy học, SGK, tranh ảnh, các tài liệu liên quan.
4. Phân nhóm học tập để học sinh giúp đỡ nhau, học hỏi cái hay, cái đúng, giúp học sinh tự phát hiện lỗi của bạn và của mình để sửa chữa.
5. Chú ý đến từng đối tượng học sinh, khuyến khích và hướng dẫn học sinh khá giỏi giúp đỡ những em còn yếu.
6. Chấm chữa bài, sửa lỗi cho học sinh ở trong tiết Luyện từ và câu và các tiết học khác. Cho điểm phù hợp, kịp thời, động viên, khuyến khích học sinh tham gia vào quá trình đánh giá.
7. Tổ chức các trò chơi trong tiết học phù hợp, Thường xuyên thay đổi hình thức để gây hứng thú cho học sinh.
8. Tăng cường dự giờ thăm lớp, trao đổi, học hỏi kinh nghiêm ở đồng nghiệp.
9. Dạy kiến thức tiếng Việt không nên chỉ dừng lại ở môn Luyện từ và câu hay các phân môn của tiếng Việt mà cần dạy ở tất cả các môn học khác.
10. Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, thường xuyên trao đổi kết quả học tập cũng như bàn biện pháp phối hợp để nâng cao chất lượng học tập cho các em.
C. PHẦN KẾT LUẬN:
Dạy học là cả một quá trình hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cả về trí tuệ, tình cảm và thể chất cho học sinh. Hành trang cho các em bước vào cuộc sống học tập, lao động sau này chính là vốn tri thức và kĩ năng cơ bản mà nhà trường tiểu học đã vun đắp cho các em. Dạy kiến thức tiếng Việt là bồi dưỡng thêm nét đẹp về tâm hồn, giúp các em thêm yêu quý và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Vì vây, dạy Luyện từ và câu cho học sinh không phải một sớm một chiều mà là cả một quá trình nổ lực phấn đấu của học sinh, kết hợp với lòng say mê nghề nghiệp, yêu trẻ của giáo viên mới đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
Trung Giang , ngày 17 tháng 5 năm 2007
Người thực hiện
Nguyễn Thị Thương
File đính kèm:
- SKKN Day LTVC.doc