Đề cương ôn tập học kì I môn Ngữ văn Lớp 8 - Năm học 2019-2020 - Trường THCS Chánh Phú Hòa
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề cương ôn tập học kì I môn Ngữ văn Lớp 8 - Năm học 2019-2020 - Trường THCS Chánh Phú Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÔN TẬP NGỮ VĂN 8 – HKI – NĂM HỌC 2019-2020
I. VĂN HỌC:
1. Truyện kí Việt Nam:
- Thời gian sáng tác: 1930 – 1945
- PTBĐ: Tự sự, miêu tả, biểu cảm.
a. Tôi đi học
- Tác giả: Thanh Tịnh
- Nội dung: Những kỉ niệm trong sáng về ngày đầu tiên được đến trường đi học.
b. Trong lòng mẹ
- Trích hồi kí “Những ngày thơ ấu”
- Tác giả: Nguyên Hồng (Nhà văn của phụ nữ và nhi đồng)
- Nội dung: Nỗi cay đắng tủi cực và tình yêu thương mẹ mãnh liệt của chú bé Hồng khi xa mẹ,
khi được nằm trong lòng mẹ.
c. Tức nước vỡ bờ
- Trích tiểu thuyết “Tắt đèn”
- Tác giả: Ngô Tất Tố.
- Tóm tắt:
- Nguyên nhân dẫn đến sự phản kháng của chị Dậu trước bọn tay sai:
+ Vì lòng căm hờn bọn tay sai cao độ.
+ Vì chị có lòng thương chồng con vô bờ bến.
+ Vì chị ý thức được sự cùng đường của mình.
- Nội dung:
+ Vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của chế độ thực phong kiến, tố cáo chính sách thuế khoá
vô nhân đạo.
+ Ca ngợi những phẩm chất cao quí và sức mạnh quật khởi tiềm tàng, mạnh mẽ của chị Dậu.
d. Lão Hạc:
- Tác giả: Nam Cao
- Tóm tắt:
- Nguyên nhân sâu xa dẫn đến cái chết của lão Hạc: Vì lão là người cha rất thương con.
- Nội dung: Số phận đau thương và phẩm chất cao quí của người nông dân cùng khổ trong xã
hội Việt Nam trước cách mạng tháng tám. Thái độ trân trọng của tác giả với họ.
* Qua đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” và “Lão Hạc”, em hiểu gì về cuộc sống của người nông
dân trong xã hội cũ?
2. Truyện nước ngoài:
a. Cô bé bán diêm:
- Tác giả: An-đéc-xen (Nhà văn Đan Mạch)
- Tóm tắt:
- Nội dung: Lòng thương cảm sâu sắc đối với 1 em bé Đan Mạch bất hạnh, chết cóng bên
đường trong đêm giao thừa.
b. Đánh nhau với cối xay gió:
- Tác giả: Xéc-van-tét (Nhà văn người Tây Ban Nha)
- Tóm tắt:
Đôn Ki-hô-te mong muốn trở thành hiệp sĩ nên đã cùng Xan-chô Pan-xa đi phiêu lưu khắp
nơi, trừ gian diệt ác. Trên đường đi, 2 người gặp những chiếc cối xay gió, Đôn Ki-hô-te tưởng
rằng chúng là những tên khổng lồ một mắt nên xông vào đánh, Xan-chô Pan-xa chỉ dám đứng
ngoài can ngăn. Kết quả Đôn Ki-hô-tê bị thương nhưng ko kêu la gì cả. Suốt đường đi, Xan-
chô Pan-xa ăn uống no say, Đôn Ki-hô-tê ko ăn gì cả. Tối hôm đó, Xan-chô Pan-xa ngủ say
còn Đôn Ki-hô-tê ko ngủ để nghĩ đến tình nương của mình. Sáng hôm sau, 2 người tiếp tục
cuộc hành trình.
- Sự đối lập giữa Đôn Ki-hô-tê và Xan-chô Pan-xa:
c. Chiếc là cuối cùng: - Tác giả: O Hen-ri (Nhà văn Mỹ)
- Tóm tắt:
Cụ Bơ – men, Xiu và Giôn – xi là những họa sĩ nghèo sống ở trong một khu phố tồi tàn
phía Tây Oa -sinh - Tơn. Mùa Đông lạnh giá Giôn- xi mắc bệnh viêm phổi, cô tin chắc rằng
khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống cô sẽ lìa đời. Xiu nói điều này với cụ Bơ – men
và hai người rất lo lắng. Mặc cho Xiu hết lòng chăm sóc, Giôn – xi vẫn bướng bỉnh giữ ý nghĩ
kì quặc ấy. Nhưng lạ thay, sau một đêm mưa gió dữ dội, ngày sau nữa, chiếc lá vẫn còn đó.
Điều này khiến Giôn- xi thoát khỏi ý nghĩ về cái chết. Xiu cho Giôn- xi biết chiếc lá cuối cùng
là bức tranh do cụ Bơ- men đã bí mật vẽ trong một đêm mưa gió để cứu Giôn- xi, trong khi đó
chính cụ chết vì bị bệnh viêm phổi.
- Chiếc lá cuối cùng được coi là một kiệt tác vì: Nó mang lại sự sống cho Giôn-xi.
d. Hai cây phong:
- Tác giả: Ai-ma-tốp (Nhà văn người Cư-rơ-gư-xtan)
- Nội dung: Tình yêu quê hương da diết gắn với câu chuyện hai cây phong và thầy giáo Đuy-
sen thời thơ ấu của tác giả.
3. Văn bản nhật dụng:
a. Thông tin về ngày trái đất năm 2000
- PTBĐ: Thuyết minh.
- Theo tài liệu của sở khoa học –công nghệ Hà Nội
- Nội dung: Tuyên truyền, phổ biến tác hại của bao bi nì lông. Kêu gọi thực hiện một ngày
không dùng bao bì ni lông, bảo vệ môi trường trái đất trong sạch.
b. Ôn dịch, thuốc lá:
- PTBĐ: Thuyết minh.
- Theo Nguyễn Khắc Viện Từ thuốc lá đến ma tuý-Bệnh nghiện.
- Nội dung: Lên án thuốc lá là thứ ôn dịch nguy hiểm hơn AIDS. Bởi vậy cần phải chống lại
việc hút thuốc lá, loại bỏ thuốc lá ra khỏi đời sống.
c. Bài tóan dân số:
- PTBĐ: Nghị luận.
- Nội dung: Dân số thế giới và Việt Nam tăng rất nhanh. Dân số tăng nhanh kìm hãm sự phát
triển kinh tế vì vậy hạn chế gia tăng dân số là đòi hỏi tất yếu của sự phát triển loài người.
-> Con đường tốt nhất để hạn chế sự gia tăng dân số là: đẩy mạnh sự phát triển giáo dục, nhất
là đối với phụ nữ.
4. Văn bản thơ: (Học thuộc lòng hết các bài thơ)
a. Đập đá ở Côn Lôn:
- Tác giả: Phan Châu Trinh
- Thể thơ: Thất ngôn bát cú
- Hoàn cảnh sáng tác: khi tác giả bị bắt làm tù khổ sai ở Côn Đảo.
b. Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác:
- Tác giả: Phan Bội Châu
- Thể thơ: Thất ngôn bát cú
- Hoàn cảnh sáng tác: khi tác giả bị bắt vào nhà ngục Quảng Đông.
c. Muốn làm thằng cuội:
- Tác giả: Tản Đà
- Thể thơ: Thất ngôn bát cú.
II. TIẾNG VIỆT: (Chú ý phần chữ in nghiêng)
1.Các loại dấu câu
a. Dấu ngoặc đơn: Dùng để đánh dấu phần chú thích (giải thích, thuyết minh, bổ sung thêm).
Ví dụ: Nguyên Hồng (1918 – 1982) tên khai sinh là Nguyễn Nguyên Hồng, quê ở thành phố
Nam Định.
-> Dấu ngoặc kép dùng để đánh dấu phần bổ sung thêm.
b. Dấu hai chấm:
- Đánh dấu phần giải thích, thuyết minh cho một phần trước đó. - Đánh dấu lời dẫn trực tiếp hay lời đối thoại
Ví dụ: Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm
nay tôi đi học.
-> Dấu hai chấm dùng để đánh dấu phần giải thích.
c. Dấu ngoặc kép:
- Đánh dấu từ ngữ, câu, đoạn dẫn trực tiếp.
- Đánh dấu từ ngữ được hiểu theo nghĩa đặc biệt hoặc có hàm ý mỉa mai.
- Đánh dấu tên tác phẩm, tờ báo, tạp chí, tập san dẫn trong câu văn.
Ví dụ: Kết cục, anh chàng “hầu cận ông lí” yếu hơn chị chàng con mọn
-> Dấu ngoặc kép dùng để đánh dấu từ ngữ có hàm ý mỉa mai.
* Đặt câu có dấu ngoặc kép và dấu hai chấm:
- Để giáo dục con cháu lòng biết ơn, ông cha ta có câu: “Uống nước nhớ nguồn”.
-> Dấu hai chấm và dấu ngoạc kép dùng để báo trước lời dẫn trực tiếp.
2. Từ vựng:
a. Cấp độ khái quát nghĩa của từ :
Nghĩa của một từ ngữ có thể rộng hơn (khái quát hơn) hoặc hẹp hơn (ít khái quát hơn)
nghĩa của tù ngữ khác :
- Một từ ngữ được coi là có nghĩa rộng khi phạm vi nghĩa của từ ngữ đó bao hàm phạm vi
nghĩa của một số từ ngữ khác.
- Một từ ngữ được coi là có nghĩa hẹp khi phạm vi nghĩa của từ ngữ đó được bao hàm trong
phạm vi nghĩa của một số từ ngữ khác.
- Một từ ngữ được coi là có nghĩa rộng đối với từ ngữ này, đồng thời có thể có nghĩa hẹp đối
với một từ ngữ khác.
b. Trường từ vựng :
- Trường từ vựng là tập hợp của những từ có ít nhất một nét chung về nghĩa .
Ví dụ:
+ Đồ dùng học tập: Bút chì, bút bi, thước kẻ, sách giáo khoa, vở
+ Xe cộ: xe đạp, xe máy, ô tô
+ Cây cối: cây bàng, cây tre, cây phượng, cây lúa
c. Từ tượng hình, từ tượng thanh :
- Từ tượng hình là từ gợi tả hình ảnh, dáng vẻ, hoạt động , trạng thái của sự vật ( VD: lom
khom, phấp phới)
- Từ tượng thanh là từ mô phỏng âm thanh của tự nhiên, của con người (VD: ríu rít, ào ào)
Công dụng: Từ tượng hình, từ tượng thanh gợi được hình ảnh, âm thanh cụ thể, sinh động, có
giá trị biểu cảm cao; thường được dùng trong văn miêu tả và tự sự.
d. Từ địa phương và biệt ngữ xã hội:
- Từ địa phương là từ ngữ chỉ sử dụng ở một (hoặc một số) địa phương nhất định (VD : bắp,
má, heo , )
- Biệt ngữ xã hội là những từ ngữ chỉ được dùng trong một tầng lớp xã hội ( VD: tầng lớp học
sinh: ngỗng (điểm 0), gậy (điểm 1) )
Cách sử dụng: _ Việc sử dụng từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội phải phù hợp với tình
huống giao tiếp. Trong thơ văn , tác giả có thể sử dụng một số từ ngữ thuộc hai lớp từ này để
tô đậm màu sắc địa phương, màu sắc tầng lớp xã hội của ngôn ngữ, tính cách nhân vật.
_ Muốn tránh lạm dụng từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội, cần tìm hiểu các
từ ngữ toàn dân có nghĩa tương ứng để sử dụng khi cần thiết.
e. Nói quá : Là biện pháp tu từ phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của sự vật, hiện tượng
được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm.
VD : Nhanh như cắt -> rất nhanh
g. Nói giảm nói tránh : Là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, tránh
gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ, nặng nề; tránh thô tục, thiếu lịch sự.
VD : Chị ấy không còn trẻ lắm. -> Ý là đã lớn tuổi rồi, già rồi.
3.Ngữ pháp: a.Trợ từ, Thán từ :
- Trợ từ là những từ chuyên đi kèm với một từ ngữ trong câu để nhấn mạnh hoặc biểu thị thái
độ đánh giá sự vật, sự việc được nói đến trong câu . VD: có, những, chính, đích, ngay, .
Ví dụ1: “Nhưng họ thách nặng quá: nguyên tiền mặt phải một trăm đồng bạc, lại còn cau, còn
rượu ”
->Trợ từ “nguyên” có tác dụng nhấn mạnh sự toàn vẹn, không sai khác đi được.
Ví dụ2: “Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười”
-> Trợ từ nhấn mạnh sự việc cứ lặp đi lặp lại.
- Thán từ là những từ dùng để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của người nói hoặc dùng để gọi đáp.
Thán từ thường đứng ở đầu câu, có khi nó được tách ra thành một câu đặc biệt.
- Thán từ gồm 2 loại chính: . Thán từ bộc lộ tình cảm (a, ái, ơ, ôi, ô hay, than ôi, trời ơi , )
. Thán từ gọi đáp (này, ơi, vâng, dạ, ừ ,...)
VD : Ô hay, tôi tưởng anh cũng biết rồi !
b. Tính thái từ : Tình thái từ là những từ được thêm vào câu để cấu tạo câu nghi vấn, câu cầu
khiến, câu cảm thán và để biểu thị các sắc thái tình cảm của người nói.
• Tình thái từ gồm một số loại đáng chú ý như sau:
+ Tình thái từ nghi vấn: à, ư, hả,hử,chứ,chăng, (VD:Anh đọc xong cuốn sách này rồi à?)
+ Tình thái từ cầu khiến: đi, nào, với, (VD: Chớ vội!)
+ Tình thái từ cảm thán: thay, sao, (VD: Tội nghiệp thay con bé!)
+ Tình thái từ biểu thị tình cảm cảm xúc: ạ, nhé, cơ, mà, ( VD: Con nghe thấy rồi ạ !)
Cách sử dụng: Khi nói hoặc viết, cần chú ý sử dụng tình thái từ phù hợp với hoàn
cảnh giao tiếp( quan hệ tuổi tác, thứ bậc xã hội, tình cảm, )
c. Câu ghép : Câu ghép là những câu do 2 hoặc nhiều cụm C-V không bao chứa nhau tạo
thành. Mỗi cụm C-V này được gọi là một vế câu. ( VD: Gió thổi, mây bay, hoa nở)
Có hai cách nối các vế câu:
- Dùng những từ có tác dụng nối. Cụ thể:
+ Nối bằng một quan hệ từ;
+ Nối bằng một cặp quan hệ từ;
+ Nối bằng một cặp phó từ, đại từ hay chỉ từ thường đi đôi với nhau (cặp từ hô ứng).
- Không dùng từ nối: Trong trường hợp này, giữa các vế câu cần có dấu phẩy, dấu
chấm phẩy hoặc dấu hai chấm.
- Quan hệ giữa các vế trong câu ghép:
+ Nguyên nhân– kết quả ( Vì trời mưa nên đường lầy lội.)
+ Điều kiện (giả thiết) ( Nếu trời mưa to thì nó sẽ ở nhà)
+ Tương phản( Mùa hè đã đến nhưng trời không nóng lắm.)
+ Tăng tiến (Tôi càng học giỏi bố mẹ tôi càng vui lòng.)
+ Lựa chọn (Tôi đi hay anh đi?)
+ Bổ sung (Nó đã học yếu nó lại còn lười học nữa)
+ Tiếp nối (Tôi đi trước rồi nó đi sau)
+Mục đích (Tôi cố gắng học tốt để bố mẹ vui lòng)
III. TẬP LÀM VĂN
DẠNG ĐỀ 1: Văn tự sự (xen miêu tả biểu cảm)
*Dàn ý:
A. Mở bài: Giới thiệu chung về câu chuyện, tên truyện, văn bản cần tự sự.
B. Thân bài: Kể theo trình tự câu chuyện, theo diễn biến của truyện có kết hợp miêu tả, biểu
cảm.
C. Kết bài: Đánh giá, cảm nhận về câu chuyện, mẩu truyện.
* Đề luyện tập:
- Hãy kể lại kỉ niệm ngày đầu tiên đi học
- Kể về một lền em mắc khuyết điểm khiến thầy cô giáo buồn. - Kể lại truyện Lão Hạc hoặc đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”
DẠNG ĐỀ 2: Văn thuyết minh:
I.Thuyết minh đồ vật
Dàn bài:
A. Mở bài: giới thiệu tên, vai trò của đối tượng cần thuyết minh
B.Thân bài:
- Trình bày nguồn gốc, lịch sử hình thành nếu có.
- Thuyết minh cấu tạo, nguyên lí hoạt động, phân loại.
- Hướng dẫn cách sử dụng bảo quản.
- Nêu công dụng, ý nghĩa
C. Kết bài: ý nghĩa trong hiên tại và tương lai.
Đề 1: Tuyết minh cây bút bi
Bài làm:
Từ thời xa xưa, con người đã cần đến dụng cụ để viết. Cây bút của người cổ đại rất thô sơ
bằng tre, đá và cả bằng lông chim, lông ngỗng. Nhưng để thuận tiện hơn trong việc viết lách,
người ta đã phát minh ra bút bi. Cây bút bi tưởng chừng như bé nhỏ nhưng lại là phát minh
đóng góp to lớn cho sự hình thành và cách mạng hóa việc viết chữ.
Nguồn gốc của cây bút bi là do một người thợ Tây phương sáng chế ra nhưng không
được khai thác thương mại. Mãi đến những năm cuối thế kỉ XIX, một nhà báo người Hungary
tên là Lazso Biro đã nhận thấy sự bất tiện trong việc viết bằng bút chấm mực. Loại bút mới
phát minh này rất lâu khô, dễ lem, rất nặng và đầu bút nhọn. Sau đó, Lazso Biro đã cải tiến cây
bút này thành một loại bút có một ống mực và đầu viết có một viên bi lăn. Nhờ sự ma sát giữa
viên bi và giấy mà mực được viết ra. Thế nhưng lại một vấn đề mới được đặt ra, loại mực của
chiếc bút bi này rất lâu khô và không thích hợp cho nghề báo của ông đặc biệt là phải đi nhiều
nơi lấy thông tin và ghi tốc kí. Và Lazso Biro lại cặm cụi tìm cách giải quyết. Ông để ý thấy
loại mực dùng để in báo rất mau khô. Ông đã vận dụng sự phát hiện này để hoàn thiện cây bút
của mình. Với sự giúp đỡ của anh họ là một nhà nghiên cứu khoa học, ông đã giải quyết được
tình trạng của cây bút. Cây bút của ông viết mau khô hơn. Năm 1887, ông nhận bằng sáng chế
Anh quốc và từ đó bút bi được sử dụng rộng rãi cho tới ngày nay.
Bút bi chúng ta dùng hiện nay có hai loại: bút dùng một lần và bút dùng để bơm mực nhiều
lần để dùng lại. Nhưng phần lớn chúng ta hay dùng loại bút dùng một lần, khi dùng hết mực
rồi bỏ. Loại bút này có hai phần: ruột bút và vỏ bút. Phần ruột bút là ống nhựa mềm hoặc cứng
chứa mực đặc. Lớp trên của mực trong ống được bơm thêm một loại chất trong suốt (hay có
màu) để mực không tràn ra ngoài. Một đầu của ống mực gắn ngòi bút. Ngòi bút bi thường làm
bằng kim loại có đầu nhọn hở một lỗ nhỏ có gắn viên bi đường kính từ 0,7 – 1mm. Nhờ sự ma
sát của viên bi mực bám trên viên bi mà chúng ta có thể viết được. Phần vỏ bút thường làm
bằng nhựa cứng hay kim loại quý (tùy theo mẫu mã và thị hiếu của người tiêu dùng). Có loại
vỏ bút thiết kế thêm nắp đậy. Trong nắp có một miếng đệm cao su để mực không bị và viên
bi không bị trầy khi va chạm nhỏ. Có loại vỏ được thiết kế với phần đầu có cái núm bấm lên
xuống (đối với loại này thì bút được gắn thêm lò xo). Khi cần dùng, ta chỉ cần bấm ở đầu ngòi
bút, ngòi bút sẽ lộ ra để viết, khi không viết nữa, ta chỉ cần bấm thêm lần nữa, ngòi bút lại thụt
vào, tránh hư ngòi viết thật tiện dụng. Còn loại bút có thể bơm mực dùng lại thì phức tạp hơn
một chút. Ruột của loại bút này làm bằng nhựa hay kim loại. Ở phần đầu ruột bút có một cái
nút bằng nhựa gắn chặt vào thành ruột bút. Mỗi khi dùng hết mực ta có thể mua mực bơm
thêm (loại mực đặc biệt dành cho bút bi) hay thay ruột bút. Về cấu tạo vỏ thì không khác loại
bút dùng một lần ta vừa nêu trên.
Trên thị trường hiện nay, có vô số chủng loại bút bi, mẫu mã, màu sắc khá đa dạng. Có loại
bút bi đậy nắp, có loại bấm ở đầu bút để ngòi lộ ra, có loại xoay thân bút,có loại trượt, tùy vào sở thích của người sử dụng. Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều thương hiệu bút bi, trong đó
bút của các hãng Thiên Long, Bến Nghé khá uy tín. Giá một cây bút bi khá rẻ, dao động từ
1500 – 4000 đồng một cây. Một số loại bút trang trí hoặc để làm quà tặng thì có giá khá cao, từ
mười mấy nghìn đến vài chục nghìn. Riêng bút bi dành cho doanh nhân, vỏ làm bằng kim loại
quí thì có giá khá cao từ vài trăm nghìn đến vài triệu đồng một cây. Nói chung, bút bi hợp túi
tiền với tất cả mọi người, từ học sinh – sinh viên ít tiền đến các doanh nhân thành đạt. Bút bi là
loại bút rất hữu ích cho đời sống con người. Bút bi giúp cho công việc học tập, viết lách trở
nên hiệu quả hơn, tiện lợi hơn. Bút bi còn có thể sáng tạo nghệ thuật, Từ chiếc bút bi, người ta
có thể vẽ được bức tranh đẹp hay xăm hình nghệ thuật bằng bút bi. Và bút bi còn có thể là một
món quà ý nghĩa cho người thân yêu của bạn. hẳn rằng nếu thiếu bút bi thì cuộc sống của con
người sẽ khó khăn trong việc viết. Bút bi có rất nhiều công dụng mà chúng ta chưa kể hết. Bút
bi đã thay đổi lịch sử về việc viết chữ của loài người
Để bảo quản một cây bút bi không khó khăn lắm. Mỗi lần viết xong ta phải đậy nắp lại hay
bấm cho ngòi bút thụt vào để tránh làm bút khô mực và nếu chẳng may va chạm hay rơi xuống
đất thì không bị bể bi không dùng được. Nếu bút bị tắc mực, ta có thể dốc ngược bút xuống để
mực chảy về phía đầu ngòi bút thì bút sẽ viết được trở lại. Thường khi để lâu ngày, bút dễ bị
khô mực, ta có thể ngâm ruột bút trong nước ấm độ 15 phút hoặc hơn thì bút sẽ hết khô mực và
viết được. Tóm lại, bút có viết được lâu bền hay không là do cách bảo quản của người sử dụng:
“Của bền tại người”.
Cây bút bi – một phát minh đóng góp to lớn cho nhân loại, một đồ dùng không thể
thiếu được trong cuộc sống hằng ngày. Bút bi là người bạn đồng hành của mọi người, đặc biệt
là với học sinh. Bút bi vẫn mãi gắn bó với tuổi học trò đầy thơ mộng và đầy ắp trong những
trang nhật kí thơm mùi mực viết. Dù thời gian có đổi thay qua những thăng trầm của cuộc
sống, cây bút bi tuy được cải tiến về nhiều mặt và có thêm nhiều công dụng khác nhưng bút bi
vẫn làm công việc mà nó vẫn thường làm tô điểm cho đời và hữu ích cho con người.
*Đề 2 : Giới thiệu về chiếc nón bảo hiểm
Bài làm:
Chúng ta dễ dàng bắt gặp được hình ảnh người điều khiển xe máy trên đường phố hôm
nay, ai ai cũng đội mũ bảo hiểm. Để có được hình ảnh ngày hôm nay, chính quyền các cấp đã
bỏ nhiều công sức mở các chiến dịch tuyên truyền, vận động và nhân dân đã phải trải qua 1
thời gian dài để thích nghi. Vậy nón bảo hiểm có điều gì mà phải mất cả năm trời để vận động,
để thích nghi? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu nhé!
Mũ bảo hiểm là loại mũ được cấu tạo đặc biệt dùng để bảo vệ đầu người khi bị tai nạn giao
thông. Mũ cấu tạo gồm ba lớp. Lớp thứ nhất ở bên ngoài là lớp vỏ cứng được làm từ nhựa đặc
biệt, cao cấp hơn người ta còn sử dụng sợi carbon siêu nhẹ Lớp thứ hai là miếng xốp dày để
giảm chấn động cho đầu khi bị va đập mạnh. Lớp trong cùng được cấu tạo bằng một chất liệu
mềm và thưa để làm thoáng khí và làm êm đầu khi đội mũ.
Bên dưới nón là dây quai nón có tác dụng giữ nón chặt vào đầu người sử dụng kể cả khi
người sử dụng bị té ngã hay chịu lực tác động khác thì nó vẫn giữ chặt vào đầu người. Dây
được may từ sợi dây dù vừa rẻ, bền, chắc hay cao cấp hơn thì dây được làm bằng da. Để giúp
cho việc đội nón vào bỏ nón, người ta chia dây thành hai phần gắn lại với nhau bằng một móc
khóa nhựa rất chắc nhưng thao tác tháo mở thì cực kì đơn giản. Trên sợi dây dài được gắn một
miếng cao su hay nhựa dẻo có thể di động được phù hợp với vị trí cằm để góp phần giữ chặt nón vào đầu. Trên sợi dây còn có một khớp để có thể nới dây dài ra hoặc thu ngắn lại giúp nón
giữ chặt với đầu có các kích thước lớn nhỏ khác nhau.
Mũ bảo hiểm ở một số loại có từ 2 đến 3 lỗ hầm gió để khi di chuyển sẽ tạo ra nguồn gió làm
thông thoáng bên trong mũ. Những nước nhiệt đới như Việt Nam ta thì những loại mũ có lỗ
thông gió là loại thông dụng nhất vì khí hậu nóng lại phơi nắng lâu nên có một thời gian nón
bảo hiểm được ví như “nồi cơm điện” chụp trên đầu. Chính các lỗ thông gió này đã tạo cơ hội
cho người sử dụng các loại nón kiểu này cảm thấy thuận tiện hơn khi đội nón. Người ta cấu tạo
nón bảo hiểm có lỗ thông gió còn kèm thêm các nút bít để sử dụng thuận tiện vào mùa mưa.
Về hình dạng nón ta thường thấy có hai loại là: nón nửa đầu và nón trùm đầu. Đặc điểm nón
nửa đầu là có trọng lượng nhẹ và rẻ hơn so với nón trùm đầu được người dân yêu thích vì nón
trùm đầu giống như “nồi cơm điện” úp trên đầu. Phải chăng lúc ban đầu các nón bảo hiểm đều
chủ yếu có màu trơn như trắng, đen nhìn rất đơn điệu. Sau này, các nhà sản xuất đã tiếp thị
được nhu cầu của người sử dụng nên đã dán decal, in hình, hay làm màu sắc đa dạng để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Thậm chí màu sắc, hình ảnh trên nón còn thể hiện cái
tôi, cái cá tính riêng của từng người. Ngoài ra, còn có chương trình hướng dẫn cho các bạn
trang trí theo cá tính riêng của mình. Qua sự việc này ta thấy nón bảo hiểm đã trở thành một
hình ảnh rất thân thiện không thể thiếu được trong cuộc sống của chúng ta.
Để tăng thêm tiện ích cho mũ bảo hiểm, các nhà sản xuất đã gắn thêm lưỡi trai ngắn hay kính
để che bụi giúp cho nón. Hiện nay, đôi khi ta vẫn thấy có những nón có nhiều phụ kiện làm
đẹp thái quá, rất phản khoa học như các phụ nữ thường gắn thêm miếng vải che nắng hoặc do
thói quen đội nón vải mà nhiều người đã gắn thêm miếng lưỡi trai quá dài. Điều đáng nói là tất
cả nón này đều không được các nhà sản xuất lớn, có uy tín sản xuất ra vì đây là phản khoa học
và những cái nón đấy lại được sản xuất ở các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, chuyên sản xuất hàng
nhái gây nguy hiểm cho người sử dụng khi gặp tai nạn
Đôi khi ra đường ta vẫn bắt gặp những người công nhân đi xe máy đội nón bảo hộ lao động.
Đấy là sự thiếu hiểu biết của người tham gia giao thông. Nón bảo hộ lao động chịu tác động tốt
từ trên xuống chứ không chịu được tác động mạnh ở mọi hướng. Mà nón bảo hiểm được cấu
tạo để bảo vệ khắp vùng đầu nên chúng ta cần phải sử dụng nón bảo hiểm thay cho sử dụng
nón bảo hộ lao động khi đi ra ngoài đường sau khi ra khỏi công trường.
Bên cạnh những cửa hiệu bán nón bảo hiểm nghiêm túc, chúng ta cũng thấy được không ít
người bán hàng rong nón bảo hiểm kém chất lượng, hàng nhái hàng giả với giá thành cao nhất
chỉ bằng 1/10 giá gốc, chính hãng. Sự tồn tại và phát triển của những loại nón nhái chính là ý
thức của một bộ phận người dân trong việc bảo vệ họ khi tham gia giao thông. Họ sợ công an
hơn là tính mạng của họ khi tham gia giao thông. Họ không nhận thức được quyền lợi của họ
khi đội nón bảo hiểm. Điều này nói lên rằng công tác tuyên truyền của ta chưa tốt, nón nhái
kém chất lượng vẫn còn đất để sống.
Hiện nay, mũ bảo hiểm có quá nhiều giá, nhiều loại và nhiều chất lượng khác nhau. Vậy để
mua được một nón bảo hiểm chất lượng, ta nên chọn mua như thế nào? Mũ bảo hiểm thật gồm
hai loại mũ trong nước sản xuất và mũ nhập khẩu. Với mũ bảo hiểm trong nước phải có dấu
CS (dấu do tự doanh nghiệp công bố sản phẩm của mình phù hợp với tiêu chuẩn Việt Nam),
mũ ngoại nhập không có dấu CS nhưng phải có tem kiểm tra. Kiểm tra các thông số ghi trên
mũ: Tên và địa chỉ đơn vị sản xuất, cỡ mũ, ngày sản xuất, hướng dẫn sử dụng và những kí
hiệu này phải rõ ràng, không lu mờ, trơn bóc.
Vậy để sử dụng nón được lâu, ta nên biết cách để bảo quản nón một cách tốt nhất. Ta nên
tránh để va đập quá nhiều làm giảm chất lượng sản phẩm. Thường xuyên sử dụng nước khử
mùi hay giặt miếng lót bên trong. Tránh việc đội chung mũ với người lạ đặc biệt là nón của xe ôm để tránh lây các bệnh da đầu. Không nên treo mũ trên tay lái bởi dễ gây trầy xước hoặc
hỏng quai mũ, không nên dùng nước nóng, các chất tẩy rửa mạnh để lau chùi, bởi dễ làm hỏng
mũ.
Cuối cùng thì việc chiếc nón bảo hiểm của chúng ta sẽ chỉ có thể phát huy tác dụng cho việc
bảo vệ cuộc sống của chúng ta tùy thuộc vào tần suất sử dụng chúng có thường xuyên hay
không. Vậy khi nào chúng ta sẽ phải thay một chiếc nón bảo hiểm mới?
1. Nón bảo hiểm đã bị va đâp và chịu lực va đập lớn do tai nạn.
2. Những chi tiết phụ kiện của nón bảo hiểm bị hư hỏng do thường xuyên sử dụng, hoặc xuất
hiện những dấu hiệu của sự xuống cấp.
3. Những tấm đệm lót bên trong nón bảo hiểm có dấu hiệu xuống cấp hư hỏng do sử dụng
thường xuyên. Bạn có thể kiểm tra bằng cách: Đội nón bảo hiểm, cài dây khoá nón, và lắc
mạnh đầu bạn theo bên trái và bên phải. Nếu nón bảo hiểm bị lỏng và không ôm theo đầu bạn
có nghĩa nón đã không còn đảm bảo an toàn.
4. Trên bề mặt của vỏ nón bảo hiểm có những đường nứt màu trắng hoặc những khe nứt nhỏ.
5. Tuy nhiên dù cho bạn không phát hiện bất kỳ dấu hiệu gì tương tự như được nêu trên.
Nhưng bạn nên thay chiếc nón bảo hiểm mới sau 5 năm sử dụng theo lời khuyến cáo
của các nhà nghiên cứu.Khi việc đội mũ bảo hiểm đã được pháp luật quy định thì tình hình
giao thông nước ta đã trở nên đặc biệt không giống ai. Trong khi các nước phát triển, người
dân sử dụng các phương tiện giao thông công cộng, kế đến là xe hơi và xe gắn máy thì được sử
dụng rất hạn chế. Người ta quy định những làn đường đi riêng không chung với xe hơi như ở
nước ta. Chúng ta đã phát triển một cách sai lầm khi không tập trung xây dựng mạng lưới giao
thông công cộng mà trao cho người dân một phương tiện rất hữu ích đó là xe gắn máy. Chính
vì thế mà hiện nay số lượng xe gắn máy ở nước ta lên hàng chục triệu chiếc xe gắn máy. Nếu
mỗi xe gắn máy cần phải 2 cái nón thì như vậy nước ta sẽ là thị trường khổng lồ của nón báo
hiểm, một sự phát triển dị dạng không giống ai. Nhưng trong tương lai nước ta sẽ phải phát
triển mạng lưới giao thông công cộng và tiến đến cấm xe gắn máy ở một số thành phố lớn.
Điều này có nghĩa là chiếc nón bảo hiểm sẽ có một ngày không còn là nỗi ám ảnh của mỗi
người dân khi ra đường. Lúc đó nhận thức của người dân về nón bảo hiểm sẽ thực tế hơn, đúng
ý nghĩa với sự tồn tại của nó.
Đề 3: Giới thiệu cây dừa Việt Nam
Bài làm:
Dừa không chỉ một loại cây ăn quả, cây cảnh mà còn là loại cây quen thuộc của nhiều làng
quê Việt Nam. Cây dừa đã gắn bó với đời sống của người Việt, và trở thành biểu tượng của
làng quê, trong đó phải nói đến vùng đất dừa Bến Tre.
Có thể nói, bất kì ở vùng quê nào trên đất nước Việt ta đều thấy thấp thoáng những bóng dừa.
Có 2 loại dừa: dừa cao và dừa lùn. Dừa lùn thường trồng để làm cảnh, loại dừa cao được phân
ra thành các loại dừa như: Dừa xiêm, dừa bị, dừa nếp, dừa lửa, dừa dâu, dừa dứa, dừa sáp.
Các bộ phận của cây dừa gồm: thân, lá, hoa, buồng, trái. Thân dừa cao khoảng 20 – 25 m,
trên thân dừa có những đốt như hổ vằn, thường có màu nâu sậm, đường kính khoảng 45 cm.
Với những loại dừa cảnh, thân dừa thường có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất
phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Lá dừa to, có màu xanh, gồm nhiều tàu, khi già lá
sẽ vàng dần rồi héo và có màu hơi nâu. Hoa dừa có màu trắng, nhỏ, kết thành chùm. Cây dừa ra hoa rồi kết trái, quả dừa có lớp vỏ dày bên ngoài. Bên trong mỗi lớp vỏ cứng là cùi
dừa và nước dừa. Cây dừa có rất nhiều quả, quả của chúng kết thành buồng, mỗi cây có rất
nhiều buồng và mỗi buồng dừa có nhiều quả, trung bình mỗi buồng từ 5 đến 10 trái dừa, có
loại trên 20 trái.
Dừa không phải chỉ để ăn quả mà các bộ phận của nó được dùng vào rất nhiều việc. Nhiều
người đã dùng thân dừa để bắc ngang con mương nhỏ làm cầu. Do thân dừa rất chắc nên người
ta đã dùng nó làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác
hoặc làm chén đũa...Bông dừa tươi được dùng làm vật trang trí rất đẹp mắt. Đọt dừa non có thể
làm gỏi, lăn bột, xào.. rất thích hợp với người ăn chay. Có một món ăn đăc biệt mà nhiều
người không biết đó là con sâu sống trên cây dừa( còn gọi là đuông dừa. Do ăn đọt dừa non
nên đuông dừa béo múp míp nên được chế biến thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng.
Trái dừa luôn được coi là phần giá trị nhất trên cây dừa. Trái dừa non được cắt ra lấy nước
uống, là loại nước giải khát thơm ngon. Ngoài ra nước dừa dùng để kho cá, kho thịt, thắng
nước màu. Phần cùi dừa dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm
kẹo dừa, nấu dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức
ăn cho gia súc. Phần vỏ cứng của trái dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm
các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rấr được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được
đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc
bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông. Lá dừa có thể dùng để lợp nhà,
làm phên liếp, chằm nón, mà còn là chất đốt thường dùng để đun nấu phổ biến ở thôn quê, lá
dừa khô bó lại làm đuốc để đi trong đêm tối trời.
Có thể thấy cây dừa không chỉ mang lại cảnh đẹp cho cuộc sống thêm phần tươi đẹp,
cho con người những món ăn thơm ngon bổ dưỡng mà nó còn có rất nhiều công dụng với đời
sống của con người. Cây dừa cũng trở thành biểu tượng của người dân Việt Nam bởi sự kiên
cường bất khuất, giám đối mặt với mọi gian nan để vươn cao,vươn xa hơn.
Đề 4: Thuyết minh về cây tre Việt Nam.
Bài làm:
Từ bao đời nay, cây tre là người bạn gần gũi và gắn bó với con người Việt Nam. Đặc biệt
với những con người sinh ra từ làng quê thì hình ảnh lũy tre xanh đã ăn sâu vào tiềm thức, tâm
hồn. Tre đã cống hiến tất cả sự sống cho con người nên ta phải yêu và bảo vệ cây tre Việt Nam
Chẳng biết cây tre có từ bao giờ, chỉ biết nó có từ xa xưa, đã gắn bó với người dân Việt Nam
qua hàng nghìn năm lịch sử. Tre xuất hiện cùng bản làng trên khắp đất Việt, đồng bằng hay
miền núi. Họ hàng nhà tre rất đa dạng, phong phú về chủng loại Tre nứa, vầu, tre mai,
trúc Nổi tiếng loài tre từ xưa đến nay là trúc Lam Sơn và Tre Điện Biên.
Loài tre rất dễ thích nghi với loại đất, đất cằn cỗi cũng như đất tốt tươi tre cũng có thể sống
được. Tre không ngại thời tiết khắc nghiệt hay giông bão, tre mọc thành bụi, thành lũy, thế hệ
sau nối tiếp thế hệ trước, tre già, măng mọc. Rễ tre thuộc loại dễ chùm, mọc rất nông nhưng
bám vào lòng đất rất chặt giúp nó chống trọi lại những cơn gió mạnh. Thân tre gầy guộc, thẳng
đứng hình ống, rỗng bên trong, chia thành từng đốt. Sắc tre màu xanh thẫm, đầm dần xuống
gốc. Thân tre tua tủa rất nhiều gai nhọn, những chiếc gai dùng để bảo vệ tre. Mới đầu, tre là
một mầm măng nhỏ, trưởng thành theo thời gian rồi trở thành cây tre đích thực, cứng cáp, dẻo
dai. Lá tre màu xanh mát, mỏng với những đường gân lá song song hình lưỡi mác rõ nét. Lá tre
non màu xanh nhạt cuộn thành ống nhọn dần về phía đầu. Ban đầu tre chỉ mọc thẳng đứng, chưa mọc lá; đến một thời gian nhất định, từ các mấu tre mọc ra những nhánh connhỏ, từ đó
mới mọc lá. Tre cũng có hoa, cả đời tre chỉ ra hoa một lần duy nhất, chúng ta rất hiếm gặp và
sau khi có hoa, vòng đời của tre sẽ kết thúc.
Chắc ai cũng biết, tre giúp ta trăm công nghìn việc, là cánh tay đắc lực cho người nông dân.
Tre làm cày, làm cuốc, làm đòn gánh. Cây tre dùng làm nhà, làm cửa vững chắc, che mưa, che
nắng cho con người, tre làm các vật dụng trong gia đình: tre làm đũa, làm rổ, rá, tăm, giường,
chõng Đối với bọn trẻ con nông thôn, tre đã làm nên tuổi thơ hồn nhiên, những trò chơi thú
vị như chơi đánh chắt, đánh truyền, những con diều vi vu hay cảnh những em bé ngồi vắt vẻo
trên lưng trâu thổi sáo. Bóng tre dang rộng, ôm trọn và tỏa bóng mát cho cả bản làng, xóm
thôn. Trong vòng tay tre, những chú trâu chậm rãi nhai cỏ, các bác nông dân cũng có chỗ nghỉ
ngơi sau một buổi làm việc mệt nhọc.
Dưới bóng tre, con người Việt Nam vẫn giữ nết văn hóa truyền thống lâu đời. Tre ăn ở đời
đời, kiếp kiếp với con người, giúp con người làm ăn sinh cơ, lập nghiệp.
Ngày xưa, xưa lắm, khi Thánh Gióng đánh giặc Ân, vì gãy vũ khí, Ngài đã vươn tay nhổ
bụi tre bên đường, ra sức đánh giặc, khiến bọn chúng khiếp sợ mà bỏ chạy tan tác. Rồi đến khi
đánh Pháp, đánh Mĩ tre cũng giúp con người. Tre là người bạn, người đồng chí, tre làm gậy,
làm chông chống lại sắt thép, súng đạn của quân thù. Tre theo chân các anh bộ đội đi đánh
giặc. Lũy tre dày đặc che chắn cho các anh bộ đội khi phải rút lui, cùng các anh lập mưu đánh
giặc. Tre giữ làng, giữ nước, bảo vệ nhân dân. Từng lớp lũy tre bao bọc lấy làng, bảo vệ cho
làng quê thanh bình. Tre hi sinh thân mình để bảo vệ con người, tre vẫn hiên ngang mặc cho
gió bão táp. Tre rất kiên cường.
Hiện nay, đồ nhựa và inox xuất hiện thay thế một số đồ dùng bằng tre trong gia đình
nhưng không thể thay thế hình bóng cây tre kiên cường, bất khuất trong lòng người dân Việt
Nam. Những bộ bàn ghế bằng tre nứa có kiểu cách bắt mắt rất được nhiều người ưa chuộng à
trở thành mặt hàng xuất khẩu đắt giá hiện nay. Tre hiện nay, tre ngay thẳng thủy chung với đất
Việt như những đức tính của người dân Việt Nam.
Đề 5: Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam
Bài làm:
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những văn hóa, nét đặc trưng của từng vùng miền và
trang phục truyền thống riêng. phụ nữ Hàn Quốc nổi tiếng với Hanbok, phụ nữ Ấn Độ để lại
cho ta ấn tượng rất đặc biệt với bộ Sari. Còn phụ nữ Việt Nam, từ xưa đến nay vẫn mãi song
hành với chiếc áo dài duyên dáng và thướt tha.
Cho đến nay, vẫn chưa biết được nguồn gốc chính xác của chiếc áo dài. Nhưng nối ngược
dòng thởi gian, hình ảnh chiếc áo dài với hai tà áo thướt tha đã được tìm thấy ở các hình khắc
mặt trống đồng Ngọc Lũ cách đây vài nghìn năm.
Áo dài có rất nhiều loại. Nhưng sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giai lãnh: cũng giống
như áo tứ thân nhưng khi ,mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Vì sau này,
phụ nữ phải làm việc đồng áng hay buôn bán nên áo giai lãnh được thu gọn lại thành áo tứ
thân: gồm bốn vạt nửa trước phải, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái. Nhưng với những người
phụ nữ tỉnh thành nhàn nhạ, muốn có một kiểu áo dài dược cách tân thế nào đó dể giảm chế nét
dân dã lao động và tăng dáng dấp sang trọng, khuê các. Thế là áo tứ thân được biến cải ở chỗ
vạt nửa trước phải nay lại được thu bé trở lai thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở
dưới vạt trước trở thành áo ngũ thân.
Khác với Kimono của Nhật Bản hay Hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt Nam vừa truyền
thống lại vừa hiện đại, có thể mặc ở mọi lúc mọi nơi: dùng làm trang phục công sở, đồng phục
File đính kèm:
de_cuong_on_tap_hoc_ki_i_mon_ngu_van_lop_8_nam_hoc_2019_2020.docx